Thực trạng công tác trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán trở về và một số đề xuất, kiến nghị
Qua đánh giá tổng kết 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) năm 2006, cho thấy chất lượng vụ việc TGPL nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp, do đó chưa được xã hội đánh giá cao. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó là do trình độ, năng lực của người thực hiện TGPL chưa cao. Nhận diện được vấn đề đó, Bộ Tư pháp đã xác định nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL là một trong những mục tiêu quan trọng, xuyên suốt từ khi triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 cho đến khi xây dựng và thông qua Luật TGPL năm 2017. Đặc biệt trong bối cảnh triển khai nguyên tắc tranh tụng theo Hiến pháp năm 2013, các luật, bộ luật tố tụng và Chiến lược cải cách tư pháp thì yêu cầu đặt ra phải nâng cao trình độ cho người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL là rất cần thiết. Để đạt được mục tiêu này, Luật TGPL năm 2017 đã có các quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL theo hướng chuyên nghiệp hóa, xã hội hóa nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý kịp thời, có chất lượng cho người được TGPL. Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật, người thực hiện TGPL bao gồm 04 nhóm chủ thể như sau: (1) Trợ giúp viên pháp lý, (2) luật sư thực hiện TGPL; (3) tư vấn viên pháp luật làm việc tại tổ chức tham gia TGPL; (4) cộng tác viên TGPL.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã tiếp tục ghi nhận vị trí, vai trò công tác trợ giúp pháp lý (TGPL) bằng việc thông qua Luật TGPL với tỷ lệ 100% đại biểu có mặt tán thành. Sự ra đời của Luật TGPL năm 2017 đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác TGPL nói riêng và triển khai Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung. Mở rộng diện người được TGPL theo các nguyên tắc, tiêu chí cụ thể, phù hợp với bản chất của TGPL và điều kiện đặc thù của đất nước là một trong những điểm mới của Luật TGPL 2017 so với Luật TGPL năm 2006 thể hiện rõ nét quyền con người trong lĩnh vực TGPL. Vấn đề về người được TGPL đang được quy định tại Điều 7 Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết (Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 và Thông tư số 08/2017/TT-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ngày 15/11/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL).
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người dân thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và Bộ Tư pháp là cơ quan được giao làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện trách nhiệm này. Vì vậy, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý của mình, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu việc cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu chung của công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp và nền hành chính hiện đại. Các văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý được ban hành, ngoài việc quy định cơ chế, chính sách trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý còn quy định về thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm, đồng thời bảo đảm yêu cầu về quản lý nhà nước .
Bài viết xin giới thiệu các quy định có liên quan về việc phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng trong các Bộ luật, luật về tố tụng, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BTC-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng và một số giải pháp tăng cường trách nhiệm phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, cụ thể như sau:
Ngày 29/6/2018, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã liên tịch ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/ TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10). Thông tư liên tịch số 10 gồm 06 Chương, 25 Điều và có hiệu lực từ ngày 01/9/2018 và thay thế Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013 hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 11). Thông tư số 10 được ban hành có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng nói riêng. Thông tư liên tịch số 10 vừa hướng dẫn thi hành các quy định về phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng giữa các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện trợ giúp pháp lý trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 (các Bộ luật, luật tố tụng) và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, vừa kế thừa những điểm còn hợp lý, khắc phục một số tồn tại của Thông tư liên tịch số 11 để bảo đảm thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý trong việc được hưởng quyền được trợ giúp pháp lý, cho người thực hiện trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng, trên cơ sở đó bào chữa, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Bài viết xin điểm qua một vài điểm mới về trách nhiệm phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng theo Thông tư liên tịch số 10 như sau:
Xác định thời điểm kết thúc vụ việc trợ giúp pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc triển khai thực hiện nghiệp vụ trợ giúp pháp lý, việc thống kê vụ việc trợ giúp pháp lý, tính chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho Trợ giúp viên pháp lý và trong việc chi trả thù lao, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Do đó, vấn đề này được các địa phương quan tâm, nhất là khi văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý đang có các quy định chưa đồng nhất, cụ thể, tại điểm 2, mục IV phần A Thông tư số 05/2008/TT-Bộ Tư pháp ngày 23/9/2008 hướng dẫn về nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý quy định:"vụ việc trợ giúp pháp lý được coi là hoàn thành khi yêu cầu của người được trợ giúp pháp lý đã được đáp ứng, kết thúc vụ việc hoặc đã được tư vấn pháp luật, được giúp đỡ, hỗ trợ nghiệp vụ theo quy định của pháp luật và người thực hiện trợ giúp pháp lý đã hoàn tất các giấy tờ, tài liệu có liên quan trong hồ sơ vụ việc trợ giúp pháp lý phù hợp với từng hình thức trợ giúp pháp lý". Trong phần giải thích các biểu mẫu về trợ giúp pháp lý tại Thông tư số 04/2016/TT-BTP ngày 03/3/201 quy định một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp, có nêu khi tính là một vụ việc trợ giúp pháp lý, cần chú ý: Trong một vụ việc nếu có bao nhiêu người được trợ giúp pháp lý có đơn yêu cầu được trợ giúp pháp lý thì sẽ tính là bấy nhiêu vụ việc trợ giúp pháp lý; một vụ việc trải qua hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) thì sẽ được tính là 02 vụ việc trợ giúp pháp lý; trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng đình chỉ vụ án ở bất kỳ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng thì vẫn được coi là một vụ việc trợ giúp pháp lý; trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng tạm đình chỉ vụ án, khi căn cứ tạm đình chỉ không còn, vụ án tiếp tục được giải quyết thì chỉ tính là 01 vụ việc trợ giúp pháp lý.
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ hành chính công được quy định rải rác trong hệ thống pháp luật và đã có những tác động tích cực trong quản lý, điều hành đối với các cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương; vừa tăng cường kỷ cương hành chính, vừa từng bước tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các ngành, các cấp trong quản lý hành chính nhà nước; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Bài viết xin trao đổi về một số nội dung trong quá trình triển khai tổ chức và hoạt động TGPL như sau:
hiện ngay từ khi thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách theo Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Nhằm thể chế hóa chính sách xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp, Luật TGPL năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định xã hội hóa hoạt động TGPL trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL và huy động sự tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân cho hoạt động TGPL. Đến nay, xã hội hóa hoạt động TGPL tiếp tục được thể chế hóa trong Luật TGPL năm 2017 có kế thừa, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay đồng thời khắc phục các hạn chế, bất cập về XHH hoạt động TGPL trong thời gian qua.