1. Tổng quan về sự hình thành trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
Nói một cách chung nhất, trợ giúp pháp lý (TGPL) là việc giúp đỡ pháp lý (tư vấn pháp luật, hòa giải, đại diện, bào chữa, kiến nghị) miễn phí của Nhà nước và xã hội cho người nghèo và người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật nhằm giải toả vướng mắc pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật để họ tự mình biết cách ứng xử phù hợp với pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện nguyên tắc Hiến định “mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm khắc phục những tiêu cực vốn có của nền kinh tế thị trường. Cùng với việc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nhằm “thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân”, “vì mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Để thực hiện các mục tiêu trên, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã quan tâm chỉ đạo: “... Cần phải mở rộng loại hình tư vấn pháp luật phổ thông, đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của các tầng lớp nhân dân nhằm góp phần nâng cao ý thức pháp luật và ứng xử pháp luật của công dân trong quan hệ đời sống hàng ngày...; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”(tại văn bản số 485/CV-VPTW ngày 31/5/1995 của Văn phòng Trung ương Đảng). Chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của đời sống pháp luật, tạo tiền đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của công tác TGPL.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã chủ động nghiên cứu, triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm TGPL của nhà nước tại Cần Thơ (7/1996) và Hà Tây (01/1997). Việc thí điểm triển khai TGPL ở 02 địa phương cho thấy, nhân dân địa phương đón nhận hoạt động này như một chính sách xã hội rộng lớn của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở kết quả thí điểm, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động TGPL của các nước trên thế giới, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Chính phủ đã hoàn thiện Đề án về việc thành lập tổ chức TGPL và báo cáo xin ý kiến Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc đối với việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL ở Việt Nam. Hoạt động TGPL không chỉ dừng lại trong lĩnh vực tư vấn pháp luật như nghiên cứu ban đầu mà bao gồm cả tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trước cơ quan tiến hành tố tụng.
Tại kỳ họp lần thứ 3 (1997), Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tiếp tục khẳng định cần “tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí…”.
2. Giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2006
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập hệ thống tổ chức TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách, thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp. Cục TGPL vừa có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về TGPL, vừa trực tiếp thực hiện TGPL trong trường hợp cần thiết. Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm TGPL trực thuộc Sở Tư pháp được thành lập.
Nhằm tăng cường hoạt động phối hợp giữa các ngành, các cấp trong hoạt động TGPL, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động, đưa hoạt động TGPL về cơ sở, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân, ngày 01/3/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 05/2000/CT-TTg về việc tăng cường công tác TGPL. Để thực hiện Quyết định số 734/TTg, Bộ Tư pháp đã chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành ban hành 16 văn bản hướng dẫn thi hành. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành các văn bản triển khai thi hành.
Ngày 06/6/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, trong đó quy định Bộ Tư pháp có nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về TGPL cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời, ngày 21/5/2002, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo đến 2010 nhằm mục đích chung là “tạo môi trường tăng trưởng nhanh, bền vững và xoá đói, giảm nghèo”, trong đó đã xác định rõ: “Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, tăng cường TGPL và khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo. Mở rộng mạng lưới trợ giúp pháp luật để người nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa có thể tiếp cận với các dịch vụ trợ giúp pháp luật”. TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách được xác định là một trong những chính sách của Chiến lược.
Hệ thống văn bản trên đã tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành tổ chức và triển khai hoạt động TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách trong phạm vi toàn quốc.
Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 01/3/2000 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác TGPL, hướng hoạt động này về cơ sở, các địa phương đã thành lập hệ thống TGPL ở cơ sở gồm Trung tâm TGPL ở cấp tỉnh, Chi nhánh, Tổ TGPL ở cấp huyện, Câu lạc bộ TGPL, Điểm TGPL ở cấp xã tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận với hoạt động TGPL. Đến tháng 6/2006, trong toàn quốc có 64 Trung tâm TGPL, trên 800 Chi nhánh, Tổ TGPL đặt tại Phòng Tư pháp cấp huyện và gần 1.300 Điểm TGPL, Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã.
Đồng thời, để thu hút lực lượng xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội thành lập thí điểm tổ chức tư vấn miễn phí cho thành viên, hội viên và tham gia thực hiện TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đội ngũ người thực hiện TGPL, trong cả nước có gần 400 chuyên viên TGPL và trên 8.000 cộng tác viên. Cộng tác viên chủ yếu là chuyên viên pháp lý, cán bộ Tư pháp cơ sở, pháp chế, luật sư, luật gia và những người là công tác pháp luật đang nghỉ hưu.
Từ năm 1997 đến hết năm 2006, Cục TGPL và các Trung tâm TGPL đã thực hiện được 982.167 vụ việc cho 1.022.471 đối tượng, trong đó có 22.714 vụ việc về đại diện, 35.707 vụ bào chữa, 890.286 vụ tư vấn, 14.137 vụ kiến nghị; 19.323 vụ hòa giải. Trong số 1.022.471 người được TGPL có: 479.477 người nghèo; 149.156 người có công với cách mạng; 148.629 người dân tộc; 48.555 trẻ em, còn lại là đối tượng khác.
Về hoạt động hợp tác quốc tế, ngay từ khi xây dựng Đề án thành lập tổ chức cho đến năm 2006, hoạt động TGPL đã thu hút được sự quan tâm, hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế, thông qua các Dự án ở những mức độ khác nhau đã hỗ trợ, thúc đẩy phát triển hoạt động TGPL.
Sau gần 10 năm thực hiện Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ công tác TGPL đã đạt được những kết quả quan trọng do ngày càng được kiện toàn về tổ chức đến tận cơ sở và năng lực được tăng cường. TGPL đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc giúp đỡ pháp lý cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và một số đối tượng khác, làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
3. Giai đoạn từ khi có Luật TGPL đến nay
Ngày 29/6/2006, bước tiến lịch sử trong hoạt động lập pháp trong lĩnh vực TGPL là Quốc hội đã thông qua Luật TGPL nâng tầm thể chế từ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Sự ra đời của Đạo luật này đã thể hiện nhất quán chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc giúp đỡ pháp luật, hỗ trợ về mặt pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là đối tượng yếu thế trong xã hội. Đó là mốc son rực rỡ đánh dấu bước chuyển về chất, đưa công tác TGPL lên một tầm cao mới phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn đất nước và xu thế thời đại.
Ngày 28/12/2007, Thông tư liên tịch số 10/2007/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC về TGPL trong hoạt động tố tụng được ban hành, Thông tư liên ngành đầu tiên hướng dẫn việc thực hiện bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trong quá trình tố tụng (nay được thay thế bởi Thông tư liên tịch số 11/2013/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 04/7/2013). Ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 678/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã tạo ra một lộ trình cụ thể cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về TGPL ở Việt Nam. Đây là Chiến lược đầu tiên của ngành Tư pháp (kể từ năm 1945 đến nay), đã tạo môi trường để TGPL phát triển. Tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của Nhà nước và huy động sự tham gia của các nguồn lực xã hội, sự hỗ trợ, đóng góp của cộng đồng quốc tế, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân cho công tác TGPL.
Sau hơn 07 năm triển khai Luật TGPL, thực hiện đi cùng và giải quyết những vướng mắc pháp luật của người dân, công tác TGPL ở Việt Nam đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình và thực sự bám rễ trong đời sống pháp luật được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ, tin cậy, được Đảng và Nhà nước quan tâm ghi nhận, với những kết quả khái quát như sau:
3.1. Về xây dựng và hoàn thiện thể chế pháp lý
Đến nay, pháp luật về TGPL đã hoàn chỉnh với một hệ thống đồng bộ gồm Luật TGPL, Nghị định số 07/2007/NĐ-CP và trên 40 văn bản hướng dẫn thi hành Luật TGPL đã được ban hành.
Ở địa phương, một số cấp uỷ Đảng đã ban hành Nghị quyết hoặc ra thông báo về định hướng lãnh đạo của Đảng đối với công tác TGPL. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Chỉ thị để tăng cường công tác TGPL; kế hoạch triển khai thực hiện Luật TGPL; Đề án kiện toàn tổ chức bộ máy cán bộ của Trung tâm…
Có thể khẳng định, hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn Luật TGPL đã được ban hành theo đúng tiến độ và bảo đảm để Luật kịp thời đi vào cuộc sống theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg. Hệ thống pháp luật TGPL đã cơ bản hoàn thiện, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, điều chỉnh khá toàn diện các vấn đề phát sinh về tổ chức và hoạt động TGPL, đặc biệt có tính đến đặc thù vùng, miền.
3.2. Về xây dựng hệ thống tổ chức, đội ngũ người thực hiện TGPL
Đến nay, hệ thống tổ chức TGPL của Nhà nước không ngừng lớn mạnh từ Trung ương đến địa phương. Ở Trung ương có Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp; ở cấp tỉnh có 63 Trung tâm TGPL thuộc Sở Tư pháp của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 199 Chi nhánh ở cấp huyện theo Luật TGPL, 4.345 Câu lạc bộ TGPL ở cấp xã. Một số tỉnh có mạng lưới Tổ hoặc Điểm TGPL ở cấp huyện để kịp thời đáp ứng nhu cầu TGPL của nhân dân.
Trong toàn quốc có 483 Trợ giúp viên pháp lý. Đồng thời, các địa phương đã chú trọng việc xây dựng và phát triển mạng lưới cộng tác viên TGPL hoạt động từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã (trong đó đặc biệt chú trọng cấp xã) trên hầu hết các lĩnh vực TGPL, nhằm huy động những người có kiến thức hiểu biết pháp luật hoặc là cán bộ, công chức đang làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật hoặc trong các lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Luật sư, Tư vấn viên pháp luật tham gia TGPL. Đến nay, trong toàn quốc hiện có 8.980 Cộng tác viên TGPL, trong đó có 1.055 Cộng tác viên là luật sư. Sự phát triển không ngừng về tổ chức và đội ngũ người thực hiện TGPL khẳng định tính tất yếu, sự lớn mạnh và trưởng thành của công tác TGPL.
Triển khai thực hiện Luật TGPL và Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm và Chi nhánh của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh đã chỉ đạo, triển khai Đề án củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ cán bộ nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm được giao. Hầu hết các Trung tâm được kiện toàn bộ máy lãnh đạo và thành lập các Phòng chuyên môn nghiệp vụ để bảo đảm tính chuyên môn hoá, tách hoạt động quản lý hành chính với hoạt động trực tiếp thực hiện vụ việc TGPL.
3.3. Về thực hiện chính sách TGPL trong Chương trình mục tiêu quốc gia và an sinh xã hội
Trong những năm qua, chính sách TGPL đã được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 20/2007/QĐ-TTg ngày 05/02/2007); Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 07/2006/QĐ-TTg ngày 10/01/2006); Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo và Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020. Để triển khai các văn bản trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/10/2010 về chính sách hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo giai đoạn 2011 - 2020 và Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg 24/12/2012 về chính sách TGPL cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã nghèo giai đoạn 2013 - 2020. Các Chương trình mục tiêu quốc gia đã giúp các địa phương đẩy mạnh hoạt động TGPL tại cơ sở, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tăng cường TGPL cho người nghèo, trẻ em, cho người bị nhiễm HIV, nạn nhân bị bạo lực gia đình trong thụ hưởng các chính sách ưu đãi; thành lập và hướng dẫn hoạt động các Câu lạc bộ TGPL; tập huấn kiến thức pháp luật; tổ chức TGPL lưu động; tăng cường phối hợp TGPL trong tố tụng; lồng ghép TGPL lưu động với xét xử lưu động; đa dạng hoá công tác truyền thông về TGPL và pháp luật và đặc biệt hơn đó là đã nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo... Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012-2020 (tại Quyết định số 1019/QĐ-TTg ngày 05/8/2012) bao gồm các hoạt động như: Truyền thông về TGPL cho người khuyết tật thông qua các hoạt động thích hợp; thực hiện TGPL cho người khuyết tật...
Những kết quả trên đã thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đầy đủ về mọi mặt cho người nghèo và các đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, bảo đảm công bằng trong tiếp cận với pháp luật của người nghèo và người được hưởng chính sách ưu đãi, đồng thời góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội và đoàn kết trong cộng đồng, thể hiện tính chất ưu việt của chế độ đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội.
3.4. Kết quả thực hiện các vụ việc TGPL và chất lượng vụ việc TGPL
Nếu như ban đầu, các Trung tâm TGPL của nhà nước chủ yếu thực hiện TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật, việc tham gia tố tụng chủ yếu dựa vào các luật sư thì đến nay, các Trung tâm TGPL đã chủ động cử Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để thực hiện đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người nghèo và đối tượng chính sách. Số lượng vụ việc TGPL được thực hiện tăng đều theo các năm. Chất lượng TGPL từng bước được nâng cao và bảo đảm. Từ năm 2007 đến 30/9/2013, trong cả nước đã thực hiện được 691.412 vụ việc cho 711.574 đối tượng, trong đó có 11.170 vụ việc về đại diện, 32.004 vụ bào chữa, 633.390 vụ tư vấn, 601 vụ kiến nghị; 977 vụ hòa giải, và các hình thức khác: 13.270. Trong số 711.574 người được TGPL có: 191.730 người nghèo; 98.100 người có công với cách mạng; 166.675 người dân tộc; 29.130 trẻ em, còn lại là các đối tượng khác.
3.5. Kết quả về hợp tác quốc tế trong công tác TGPL
Hoạt động TGPL đã được các tổ chức quốc tế: Novib (Tổ chức phi Chính phủ về hợp tác và phát triển quốc tế Hà Lan), Sida (Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển), SDC (Tổ chức hợp tác và phát triển Thụy Sỹ), SCS (Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển), DIHR (Viện nhân quyền Đan Mạch), The Asia Foundation (Quỹ Châu Á), Cida - NZAID (Tổ chức phát triển quốc tế Canada - Newzeland) và UNDP (Tổ chức phát triển quốc tế của Liên Hợp quốc); EC (Chương trình đối tác tư pháp Việt Nam do Liên minh Châu Âu); UNODC (Cơ quan phòng chống tội phạm và ma tuý của Liên hợp quốc) hỗ trợ thông qua các Dự án hợp tác TGPL về hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc thiết yếu như: máy vi tính, máy photocopy, sách, tài liệu pháp luật, xe máy); kinh phí tập huấn nghiệp vụ, hội thảo, toạ đàm; kinh phí mời luật sư đại diện, bào chữa; hỗ trợ nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL; truyền thông, tăng cường khả năng tiếp cận hoạt động TGPL của người được TGPL; hỗ trợ hoàn thiện thể chế pháp lý về TGPL và tăng cường giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước về TGPL.
Đặc biệt, đối với Dự án “Hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, 2005 - 2009” do Tổ chức Phát triển quốc tế Thụy Điển (Sida), Tổ chức Hợp tác và phát triển Thụy Sỹ (SDC), Tổ chức Oxfam Novib - Hà Lan, Tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS) đồng tài trợ, qua 04 năm (2005 - 2009) đã có 401.220 người được TGPL (trong đó có 26.079 người được cử luật sư tham gia tố tụng để bào chữa hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp), tăng 28% so với giai đoạn trước khi thực hiện Dự án.
Kết thúc từng giai đoạn thực hiện Dự án, các nước và tổ chức quốc tế tổ chức đánh giá độc lập đánh giá cao hiệu quả thực hiện Dự án. Sự hỗ trợ và đóng góp rất tích cực của các tổ chức quốc tế cho hoạt động TGPL thông qua các Dự án hợp tác đã góp phần không nhỏ trong việc tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam. Đồng thời, giúp cộng đồng quốc tế nhìn nhận khách quan, toàn diện hơn về vấn đề bảo đảm quyền con người ở Việt Nam cũng như tăng cường hiểu biết về Việt Nam.
3.6. Về cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm hoạt động TGPL
Trong hoàn cảnh khó khăn chung của Ngành về cơ sở vật chất và nguồn ngân sách nhưng nhiều địa phương đã nỗ lực, cố gắng bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Trung tâm, Chi nhánh nhằm bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao. Qua thống kê cho thấy, hiện nay, trong cả nước đã có 31/63 Trung tâm có trụ sở làm việc riêng, độc lập, thuận tiện cho người được TGPL tiếp cận; 32 Trung tâm vẫn chung trụ sở làm việc với Sở Tư pháp; 25 Trung tâm được trang bị xe ôtô để đi TGPL lưu động và phục vụ các hoạt động TGPL ở cơ sở. Được sự hỗ trợ của các Dự án hợp tác quốc tế, các Trung tâm đều đã được trang bị các phương tiện làm việc cần thiết như máy vi tính, máy photocopy, mỗi Trung tâm 02 xe máy, 63 Trung tâm đã kết nối Internet, sử dụng công nghệ tin học...
Như vậy, với những kết quả trên đây, có thể khẳng định, công tác TGPL mới triển khai thực hiện 16 năm nhưng đã mang lại những hiệu quả nhất định. Khoảng thời gian đó tuy không dài so với lịch sử hoạt động TGPL vài trăm năm của các nước đã phát triển cũng như bề dày truyền thống gần 70 năm của ngành Tư pháp Việt Nam. Tuy nhiên, những kết quả mà công tác TGPL mang lại đã chứng minh chủ trương của Đảng về việc thành lập và phát triển hoạt động TGPL ở nước ta là đúng đắn, kịp thời, phù hợp với nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân. Các tổ chức TGPL đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong việc giúp đỡ pháp lý cho đông đảo người nghèo, các đối tượng chính sách và một số đối tượng khác, đồng thời trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống pháp luật của xã hội. Từ chỗ chỉ là những ý tưởng ban đầu, mang tính thí điểm, đến nay, hoạt động này đã có đóng góp quan trọng vào sự phát triển và trưởng thành của ngành Tư pháp và sự nghiệp đổi mới của đất nước. TGPL phát triển sẽ góp phần đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, bảo đảm quyền con người, xóa đói, giảm nghèo từng bước đưa nước ta sánh vai với các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
4. Một số tồn tại, khó khăn:
Một là, nhận thức về TGPL của một bộ phận cán bộ, đảng viên và người được TGPL ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nhất là chính quyền cơ sở, đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế, chưa biết đến hoạt động TGPL hoặc chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của TGPL trong bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tham gia xoá nghèo về mặt pháp luật và thực hiện an sinh xã hội. Trong khi đó, công tác truyền thông, phổ biến pháp luật về TGPL ở một số nơi còn mang tính thời vụ, thiếu thường xuyên, chưa đổi mới phương thức nên hiệu quả chưa cao. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan với tổ chức TGPL có lúc, có nơi còn chưa thật chặt chẽ, cá biệt có cơ quan, tổ chức vẫn coi TGPL là nhiệm vụ của riêng ngành Tư pháp.
Hai là, tại một số địa phương, việc củng cố, kiện toàn tổ chức thực hiện TGPL còn chậm. Việc xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL của Trung tâm và Chi nhánh còn chưa kịp thời (số lượng Trợ giúp viên pháp lý còn thiếu so với nhu cầu, thiếu nguồn cán bộ đủ tiêu chuẩn để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn Trợ giúp viên pháp lý; đội ngũ cộng tác viên TGPL còn hạn chế về kỹ năng và kinh nghiệm thực hiện TGPL, ảnh hưởng đến chất lượng vụ việc TGPL).
Ba là, một số hoạt động TGPL chưa hiệu quả, số lượng vụ việc tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và kiến nghị còn ít so với nhu cầu và số lượng án giải quyết hàng năm của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhiều vụ việc kiến nghị hiệu quả chưa cao do không được quan tâm, giải quyết của các cơ quan có thẩm quyền. Hoạt động của các Câu lạc bộ TGPL chưa đồng đều, một số chính quyền địa phương chưa quan tâm tạo điều kiện, hỗ trợ Câu lạc bộ tổ chức sinh hoạt. Hoạt động của Câu lạc bộ còn phụ thuộc nhiều vào hỗ trợ, tài trợ của trung ương và Dự án nên chưa bảo đảm sự phát triển bền vững.
Bốn là, chưa có chính sách đặc thù để khuyến khích, động viên đối với những người làm công tác TGPL, đặc biệt là người dân tộc thiểu số, lực lượng ở vùng miền khó khăn nên đội ngũ cán bộ TGPL chưa yên tâm làm việc, chưa có sức hút đối với những người có trình độ cử nhân luật khá, giỏi, Luật sư sang làm công tác TGPL, trong khi đó yêu cầu đối với Trợ giúp viên pháp lý cao (phải bảo đảm thực hiện đúng quy tắc nghề nghiệp, tiêu chuẩn, chất lượng vụ việc TGPL nhưng lương lại thấp).
Năm là, việc đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm hoạt động TGPL của một số địa phương còn hạn chế chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ, phương tiện và trang thiết bị làm việc thiết yếu còn thiếu, chưa có ô tô để đi TGPL lưu động đưa TGPL về cơ sở. Kinh phí cấp cho Trung tâm vẫn theo định mức biên chế sự nghiệp như các đơn vị sự nghiệp có thu khác mà chưa tính đến đặc thù, tính chất miễn phí của hoạt động TGPL. Trụ sở tiếp công dân của một số Trung tâm còn chật hẹp, chưa thuận tiện cho dân.
Sáu là, công tác quản lý nhà nước về TGPL chưa đáp ứng yêu cầu xã hội hóa TGPL về nguồn nhân lực và tài chính. Mặc dù thể chế pháp lý về tổ chức và hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam đã khá đầy đủ, bài bản nhưng chưa huy động được hỗ trợ xã hội; công tác thống kê, báo cáo, cập nhật thông tin về TGPL còn thủ công, chậm được đổi mới, chưa ứng dụng được nhiều công nghệ thông tin. Đến nay, vẫn chưa có đầy đủ thông tin về tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật thuộc các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp.
Bảy là, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (đặc biệt là tổ chức luật sư toàn quốc và các Đoàn Luật sư) trong công tác TGPL còn hạn chế, chưa phát huy hết vai trò, khả năng trong việc vận động, tập hợp luật sư tham gia TGPL hoặc đóng góp, hỗ trợ cho Quỹ TGPL Việt Nam cũng như các hoạt động nghiệp vụ TGPL. Hội nghề nghiệp TGPL do mới ra đời còn chưa có điều kiện hoạt động để tăng tính tự quản và thu hút lực lượng xã hội.
Tám là, trong những năm qua, nguồn hỗ trợ của các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ nước ngoài đã có những đóng góp đáng kể cho sự hình thành và phát triển của hệ thống TGPL ở Việt Nam, đặc biệt là đối với các địa phương nghèo, nguồn kinh phí từ ngân sách của tỉnh hạn hẹp. Từ năm 2010 hết Dự án, các địa phương nghèo đã gặp nhiều khó khăn trong việc triển khai các hoạt động TGPL do ngân sách địa phương cấp rất hạn chế, không bảo đảm cho các hoạt động TGPL lưu động, tập huấn truyền thông, sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL.
5. Định hướng phát triển trong thời gian tới:
5.1. Về xây dựng, hoàn thiện thể chế
Tổng kết lý luận và thực tiễn thực hiện Luật TGPL để sửa đổi, bổ sung trong đó có sửa đổi căn bản, toàn diện từ hệ thống TGPL, mô hình TGPL, cơ cấu tổ chức, đội ngũ người thực hiện TGPL, đối tượng được TGPL và các yếu tố căn bản khác; Xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TGPL đồng thời sửa đổi các quy định của pháp luật có liên quan không còn phù hợp để tạo ra hệ thống hành lang pháp lý về TGPL một cách đồng bộ, khả thi đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hội nhập trong xã hội.
5.2. Về mô hình (hệ thống) TGPL
Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức ở Trung ương và địa phương cho phù hợp đáp ứng hiệu quả trong công tác TGPL.
5.3. Về người thực hiện TGPL: Chuyển đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành Luật sư hưởng lương Nhà nước và cụ thể hóa các tiêu chuẩn, điều kiện của chức danh này.
5.4. Đẩy mạnh chất lượng TGPL cho các đối tượng này để đáp ứng ngày càng nhiều các yêu cầu TGPL của người dân. Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông pháp luật về TGPL đến với nhân dân để mọi người đều biết và nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò của công tác TGPL.
5.5. Tích cực huy động các nguồn lực xã hội tham gia TGPL; có chính sách ưu đãi, khuyến khích xã hội hóa công tác TGPL, hỗ trợ, phát triển công tác TGPL, đặc biệt là cơ chế giám sát, phản biện xã hội để hoạt động TGPL phát huy hiệu quả, thực sự là địa chỉ tin cậy hỗ trợ người dân trong việc tiếp cận, khai thác và sử dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tham gia, giám sát việc thực hiện pháp luật về TGPL.
5.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí bảo đảm cho công tác TGPL; chú trọng nguồn kinh phí chi cho các hoạt động nghiệp vụ TGPL; tăng cường các biện pháp bảo đảm khác để công tác TGPL phát triển ổn định, bền vững./.
Tiếng Việt