Xem cỡ chữ

I. TỔNG QUAN VỀ HÌNH THÀNH CÔNG TÁC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM
Trợ giúp pháp lý ra đời muộn hơn so với các nhiệm vụ khác trong ngành tư pháp. Trước năm 1997, chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” bắt đầu được sử dụng từ năm 1995 trong nghiên cứu khoa học. Đến năm 1997 thì thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng một cách chính thức trong văn bản pháp luật với việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Sau đó, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” đã được sử dụng trong các văn bản triển khai thực hiện Quyết định 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ. Đến Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đã quy định khái niệm trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật” (Điều 3). Hiện nay, khái niệm trợ giúp pháp lý được hiểu thống nhất là “việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật” (Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, hoạt động trợ giúp pháp lý miễn phí của nhà nước đã trải qua các giai đoạn khác nhau phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra trong từng giai đoạn của đất nước.
Từ năm 1996 trở về trước, hoạt động dịch vụ pháp lý miễn phí phát triển gắn liền với hoạt động của luật sư và của các cơ quan tư pháp. Ngày 18/5/1995, Ban Bí thư Trung ương Đảng tại phiên họp bàn về vấn đề tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của các tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật nước ngoài góp phần vào việc thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời kỳ đổi mới, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đặt vấn đề: “Chúng ta cần chú ý đến các biện pháp để tăng cường hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân, mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác này chưa được quan tâm đúng mức. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu và làm ngay trong thời gian tới”. Văn phòng Trung ương ngày 31/5/1995 đã có Văn bản số 485/CV-VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán sự Đảng Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp cần xây dựng cơ chế giúp đỡ pháp lý, chú trọng việc “xác định phạm vi thích hợp hoạt động tư vấn pháp luật của tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, trước hết chú trọng tổ chức tư vấn pháp luật của nhà nước… cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Đồng thời, trong thư ngày 20/12/1995 gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười một lần nữa nhấn mạnh: “Nhà nước phải nghiên cứu sớm thành lập một hệ thống các tổ chức tư vấn pháp luật không mất tiền dành cho người nghèo, các gia đình thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số”. Các chỉ đạo này đã đặt dấu ấn quan trọng cho quá trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của đời sống pháp luật, tạo tiền đề chính trị và nhận thức cho sự ra đời và phát triển của công tác trợ giúp pháp lý.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) đã chủ động nghiên cứu, triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước tại Cần Thơ (7/1996) và Hà Tây (01/1997). Việc thí điểm triển khai trợ giúp pháp lý ở 02 địa phương cho thấy, nhân dân địa phương đón nhận hoạt động này như một chính sách xã hội rộng lớn của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở kết quả thí điểm, nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý của các nước trên thế giới, Bộ Tư pháp và Ban Tổ chức Chính phủ đã hoàn thiện Đề án về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý và báo cáo xin ý kiến Trung ương, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý về nguyên tắc đối với việc thành lập hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.
II. TỔNG QUAN VỀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Có thể nói, giai đoạn từ khi thành lập đến nay là một giai đoạn tương đối dài, chứng kiến những đổi thay, chuyển mình của công tác trợ giúp pháp lý. Vì vậy, để làm nổi bật những điểm nhấn của quá trình phát triển công tác trợ giúp pháp lý, có thể chia thành các giai đoạn như sau: (1) giai đoạn từ khi thành lập đến năm 2006; (2) giai đoạn từ năm 2006 đến trước khi đổi mới công tác trợ giúp pháp lý; (3) giai đoạn từ khi đổi mới công tác trợ giúp pháp lý (từ năm 2015, đặc biệt là từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến nay).
1. GIAI ĐOẠN TỪ KHI THÀNH LẬP ĐẾN NĂM 2006
Trên cơ sở kết quả bước đầu của việc triển khai Đề án thí điểm trợ giúp pháp lý tại các địa phương, tại kỳ họp thứ 3 năm 1997 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ đạo định hướng: “Tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng của việc hình thành công tác trợ giúp pháp lý, tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận pháp luật của người nghèo.
Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 734/TTg về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng đầu tiên quy định sự hình thành của hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý. Theo đó, hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của Nhà nước bao gồm Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp và Trung tâm trợ giúp pháp lý trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cục Trợ giúp pháp lý được thành lập vừa có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, vừa trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp cần thiết.
Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp được thành lập để trực tiếp thực hiện trợ giúp pháp lý. Như vậy, từ chủ trương ban đầu của Đảng về việc nghiên cứu tư vấn pháp luật miễn phí cho người nghèo khi tổ chức triển khai thực hiện đã được mở rộng thành trợ giúp pháp lý (bao gồm cả tư vấn pháp luật, đại diện, bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự trong tố tụng, đại diện ngoài tố tụng miễn phí) cho cả người nghèo và đối tượng chính sách.
Kết quả, triển khai thực hiện Quyết định số 734/TTg của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành, các Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được củng cố và kiện toàn. Ở Trung ương, bộ máy tổ chức của Cục Trợ giúp pháp lý cơ bản được kiện toàn với 06 đơn vị trực thuộc và một số cơ cấu giúp việc khác. Đến hết năm 2006, hệ thống trợ giúp pháp lý có 64 Trung tâm trợ giúp pháp lý của nhà nước tại 64/64 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 902 Tổ, 115 Chi nhánh, 823 Câu lạc bộ, Điểm trợ giúp pháp lý ở cấp huyện, xã... Theo số liệu thống kê của Cục Trợ giúp pháp lý từ năm 1997 đến 2006, Cục Trợ giúp pháp lý và các Trung tâm trợ giúp pháp lý đã thực hiện khoảng hơn 980 nghìn vụ việc cho hơn 1 triệu lượt người.
Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì tổ chức và hoạt động về trợ giúp pháp lý đã bộc lộ nhiều bất cập, tồn tại như lực lượng chuyên viên pháp lý chuyên trách mới chỉ thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tư vấn pháp luật, kiến nghị mà chưa được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho đối tượng được trợ giúp pháp lý, số lượng vụ việc tố tụng thực hiện còn ít, mới chỉ đáp ứng được một tỷ lệ rất nhỏ nhu cầu của người dân trong xã hội… Do đó, đặt ra yêu cầu là cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về công tác trợ giúp pháp lý, cần cơ chế pháp lý có hiệu lực cao để điều chỉnh toàn diện các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động trợ giúp pháp lý.
2. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
Ngày 29/6/2006 Quốc hội khoá XI kỳ họp thứ 9 đã thể chế hóa chính sách cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo của Đảng bằng một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Luật Trợ giúp pháp lý. Đây là một bước đột phá lớn về mặt thể chế, nâng tầm từ 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ lên thành Luật mà không cần qua bước Nghị định, Pháp lệnh. Điều đó khẳng định sự nhìn nhận, đánh giá cao của Quốc hội đối với những kết quả của công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn trước.
- Về thể chế trợ giúp pháp lý:
Trên cơ sở Luật, Bộ Tư pháp đã tham mưu, trình ban hành, liên tịch ban hành và ban hành hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn Luật từ Nghị định, Thông tư liên tịch, Thông tư, Quyết định đến Quy chế, Điều lệ để bảo đảm Luật Trợ giúp pháp lý được kịp thời triển khai trong thực tiễn. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung vấn đề trợ giúp pháp lý trong một số văn bản pháp luật có liên quan theo hướng quy định rõ chức danh Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng; bổ sung quyền được trợ giúp pháp lý; mặt khác, trợ giúp pháp lý được quy định là một nội dung “giảm nghèo về pháp luật” trong tổng thể các chính sách về giảm nghèo của Đảng và Nhà nước… Ở địa phương, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành các văn bản để triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý như: Chỉ thị tăng cường công tác trợ giúp pháp lý, xác định các nhiệm vụ trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý, kế hoạch triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý; Đề án kiện toàn tổ chức, bộ máy của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước...
- Về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý:
Sau 08 năm thi hành Luật Trợ giúp pháp lý, đến năm hết 2014, toàn quốc có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và 424 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý. Tổng số công chức, viên chức và người lao động khác thuộc hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước là 1.313 người, trong đó có 572 Trợ giúp viên pháp lý… Ngoài ra còn có 424 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, 1.136 luật sư cộng tác viên và hơn 9 nghìn cộng tác viên khác thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Về kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý:
Theo kết quả tổng hợp báo cáo của các địa phương, sau 08 năm thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý (từ 01/01/2007 đến hết tháng 12/2014), các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong cả nước đã thực hiện được hơn 920 nghìn vụ việc, trong đó có hơn 51 nghìn vụ việc tham gia tố tụng.
Ngoài ra còn có các kết quả khác như: Từ năm 2006 đến năm 2014, Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều khóa bồi dưỡng nguồn bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, hàng năm tổ chức các lớp tập huấn văn bản mới, các kỹ năng trợ giúp pháp lý cho nhóm đối tượng đặc thù; công tác phối hợp trong hoạt động trợ giúp pháp lý có nhiều kết quả tích cực, việc truyền thông về trợ giúp pháp lý ngày càng được quan tâm…
Tuy nhiên, trước sự thay đổi bối cảnh kinh tế - xã hội của đất nước, sự phát triển của pháp luật nói chung và của dịch vụ pháp lý nói riêng, tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý trong giai đoạn này đã bộc lộ nhiều điểm bất cập như quy định người được trợ giúp pháp lý cũng chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực tiễn và tinh thần điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; hoạt động trợ giúp pháp lý với bản chất là giúp đỡ các đối tượng yếu thế giải quyết các vụ việc cụ thể khi họ phải đối mặt với pháp luật bằng các hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật tại trụ sở chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý nhiều lúc còn chưa được bảo đảm, chưa chuyên nghiệp. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý chưa đạt hiệu quả cao…
3. GIAI ĐOẠN TỪ KHI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ, ĐẶC BIỆT TỪ KHI TRIỂN KHAI LUẬT TRỢ GIÚP PHÁP LÝ NĂM 2017 ĐẾN NAY
Như đã nêu trên, thực tiễn triển khai công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn trước năm 2015 đã có một số khó khăn, bất cập. Do đó, cần có những biện pháp khắc phục những hạn chế, bất cập và những giải pháp mang tính đổi mới, nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý nhằm cung cấp dịch vụ pháp lý công thực sự có chất lượng cho các đối tượng thụ hưởng trợ giúp pháp lý. Ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác trợ giúp pháp lý giai đoạn 2015 - 2025. Song song với việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Đề án, Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) được nghiên cứu, xây dựng từ năm 2016 đến tháng 6/2017 và kết quả ngày 20/6/2017, Luật Trợ giúp pháp lý sửa đổi được Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 khóa XIV đã thông qua với tỷ lệ phiếu rất cao (100% đại biểu tham gia bỏ phiếu tán thành). Đến nay, có thể kể đến một số kết quả cụ thể triển khai thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 như sau:

- Về thể chế trợ giúp pháp lý: Hệ thống văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý gồm Luật, Nghị định, Thông tư liên tịch và các Thông tư. Cùng với đó, nội dung về trợ giúp pháp lý cũng đã được quy định trong các Bộ luật, luật khác có liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình... Mặt khác, các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế (như Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật....). Đặc biệt, mới đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp về trợ giúp pháp lý; TGPL đã được ghi nhận trong tất cả Chương trình mục tiêu quốc gia: về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025…
- Hệ thống trợ giúp pháp lý được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp: Việc sắp xếp, kiện toàn bộ máy, đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý được các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước quan tâm thực hiện. Tính đến hết năm 2023, hệ thống trợ giúp pháp lý 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, 97 Chi nhánh, với tổng số 1228 viên chức, người lao động, trong đó có 676 trợ giúp viên pháp lý; có 180 tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; 675 cá nhân ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý. Đến nay, trợ giúp viên pháp lý đã trở thành đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân; số lượng vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý tăng hằng năm.
- Tập trung vào vụ việc trợ giúp pháp lý, đáp ứng ngày càng nhiều hơn, chất lượng hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý: Trên cơ sở Luật Trợ giúp pháp lý 2017, các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Từ 2018 đến 2023, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã cung cấp khoảng 195 nghìn vụ việc, trong đó khoảng 106 nghìn vụ việc tham gia tố tụng. Hằng năm số lượng vụ việc tham gia tố tụng kết thúc tăng lên, cụ thể: năm 2018 là 11.860 vụ việc, năm 2019 là 13.428 vụ việc, năm 2020 là 16.168 vụ việc, năm 2021 là 20.868 vụ việc, năm 2022 là 21.276 vụ việc, năm 2023 là 25.506 vụ việc.
Với sự chỉ đạo, điều hành sát sao, kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý, chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý đã có chuyển biến rõ nét, ngày càng được nâng cao. Chất lượng, hiệu quả vụ việc được xác định căn cứ vào tiêu chí cụ thể. Qua báo cáo của các địa phương, hầu hết, các vụ việc trợ giúp pháp lý được đánh giá là đạt chất lượng trở lên, không có vụ việc nào bị khiếu kiện về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý và nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như: Người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân...
- Công tác phối hợp trợ giúp pháp lý ngày càng chặt chẽ, hiệu quả: Trong thời gian gần đây việc phối hợp trợ giúp pháp lý nói chung, đặc biệt là phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có nhiều chuyển biến tích cực. Để triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và quy định của các bộ luật, luật tố tụng liên quan, ngày 29/6/2018, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng. Bên cạnh đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan ban hành chương trình phối hợp về trợ giúp pháp lý (Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án, Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA ngày 27/11/2023 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự, Quy chế số 4617/QCPH/BTP-LĐLS ngày 28/12/2016 phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam về hoạt động TGPL của luật sư...). Cùng với đó, để triển khai nội dung điểm cầu thành phần trong phiên tòa trực tuyến theo Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến theo Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV, đến nay một số địa phương đã lập dự toán kinh phí, bố trí cơ sở vật chất, trang thiết bị; xây dựng điểm cầu thành phần và tham gia vào phiên tòa trực tuyến. Ngoài ra, để thực hiện quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP, nhiều địa phương (Sở Tư pháp/Trung tâm trợ giúp pháp lý) đã ban hành công văn, văn bản đến Uỷ ban nhân dân cấp xã đề nghị phối hợp triển khai thực hiện trách nhiệm thông tin, giới thiệu về trợ giúp pháp lý.
Bên cạnh đó, nhằm lan tỏa quyền được trợ giúp pháp lý và các kết quả của công tác trợ giúp pháp lý trong thời gian qua, Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp và các địa phương đã đa dạng hóa các hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý như phát sóng thông điệp, tiểu phẩm về trợ giúp pháp lý trên Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV); phối hợp xây dựng, phát sóng phóng sự, phim diễn án trợ giúp pháp lý trên chuyên mục Quốc hội với cử tri, các kênh truyền hình (kênh VTV1, VTV2, VTV5, VTV8, Vnews, …); tổ chức các đợt truyền thông điểm về trợ giúp pháp lý cho người dân, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng... Đồng thời, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý được tăng cường ở cả Trung ương và địa phương.
- Đánh giá chung: Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội Đảng và nhiệm kỳ Chính phủ đến nay (giai đoạn 2021 – 2023), có thể thấy rằng việc triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đạt được nhiều kết quả tích cực và được Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Thể chế về trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện[1], trong đó nổi bật là lần đầu tiên Nghị quyết của Đảng giao nhiệm vụ và đề ra giải pháp cho công tác trợ giúp pháp lý là nâng cao vai trò, chuyên nghiệp, chất lượng, xây dựng mạng lưới, hiện đại hóa hệ thống trợ giúp pháp lý; lần đầu tiên Bộ Tư pháp ban hành tiêu chí xác định vụ việc tham gia tố tụng thành công; lần đầu tiên quy định việc trợ giúp pháp lý tham gia phiên tòa trực tuyến và có Trợ giúp viên pháp lý hạng I. Công tác truyền thông trợ giúp pháp lý được thúc đẩy với nhiều phương thức khác nhau[2] có nhiều Chương trình ấn tượng[3]. Công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng đạt nhiều kết quả nổi bật với việc ký kết 02 Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án và trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự trên phạm vi toàn quốc lần đầu tiên[4]. Bên cạnh đó, lần đầu tiên nội dung trợ giúp pháp lý đã được triển khai đồng bộ trong tất cả Chương trình mục tiêu quốc gia: về giảm nghèo bền vững[5], xây dựng nông thôn mới[6] và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2025[7] thể hiện vai trò tích cực trong an sinh và phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động trợ giúp pháp lý đã đi vào nề nếp và tập trung thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý hơn, nhất là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý. Số lượng và chất lượng[8] dịch vụ trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao, thực sự là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Thông qua các vụ việc trợ giúp pháp lý cho thấy đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp viên pháp lý nói riêng ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc giúp người yếu thế tiếp cận công lý, góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NHIỆM VỤ TRONG THỜI GIAN TỚI
Với định hướng tiếp tục lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm, bảo đảm giúp người dân tiếp cận hoạt động trợ giúp pháp lý kịp thời, thuận lợi, có chất lượng và ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại tiến tới khẳng định vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý là một trong những thiết chế bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho một bộ phận lớn người dân trong xã hội, qua đó góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp nói riêng, trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung, trong thời gian tới, hệ thống trợ giúp pháp lý cần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ sau:
1. Triển khai thực hiện nội dung “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật”; “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước” được giao tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và các văn bản triển khai Nghị quyết.
2. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành; tiếp tục hoàn thiện thể chế công tác trợ giúp pháp lý phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; bám sát tình hình, thực tiễn công tác và hoạt động trợ giúp pháp lý tại các địa phương, kịp thời dự báo các khó khăn, vướng mắc phát sinh để tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ.
3. Triển khai hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý và tạo sự đồng bộ với các hoạt động khác trong các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các dự án, chương trình, đề án khác có nội dung trợ giúp pháp lý, qua đó thể hiện vai trò tích cực trong an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
4. Tiếp tục kiện toàn, tăng cường năng lực Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tương xứng với vị trí là đơn vị cung cấp sự nghiệp công thiết yếu, kiện toàn các Chi nhánh đã có (bảo đảm về nhân sự, điều kiện làm việc, cơ sở vật chất), thành lập Chi nhánh mới khi đáp ứng yêu cầu của Luật Trợ giúp pháp lý và đáp ứng nhu cầu thực tế tại địa phương. Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, nhất là Trợ giúp viên pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về trợ giúp pháp lý của người dân thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn…
5. Tập trung vào thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý. Tổ chức thực hiện đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đánh giá hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công.
6. Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, nhất là công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng về giải thích, giới thiệu, thông tin, thông báo về nhu cầu trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án, tổ chức phiên tòa trực tuyến, liên thông chia sẻ các cơ sở dữ liệu có liên quan....
7. Tiếp tục truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết về trợ giúp pháp lý của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý. Khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý, nhất là đội ngũ luật sư có kinh nghiệm tham gia tố tụng.
8. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác trợ giúp pháp lý đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới xây dựng chính phủ số nhằm tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và đẩy mạnh, tăng mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân./.

CỤC TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
 

[1] Nghị quyết 27- NQ/TW ngày 09/11/2022 về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới (điểm3 và điểm 7 mục IV); Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành: Thông tư số 02/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 hướng dẫn cách tính thời gian theo buổi làm việc thực tế và khoán vụ việc trợ giúp pháp lý; Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 25/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, hướng dẫn tờ khai trong hoạt động trợ giúp pháp lý và Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; Thông tư số 05/2022/TT-BTP ngày 05/9/2022 quy định mã số, tiêu chuẩn và xếp lương đối với chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý; Thông tư số 09/2022/TT-BTP ngày 30/12/2022 bãi bỏ một số nội dung tại các Thông tư trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, hộ tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành; phối hợp ban hành Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 quy định chi tiết và hướng dẫn việc xem xét, quyết định mở phiên tòa trực tuyến.
[2] Phối hợp với Đài truyền hình phát sóng nhiều Chương trình về TGPL; một số Trung tâm xây dựng Trang thông tin điện tử riêng về TGPL (Bình Định, Hải Phòng...). Đa số các Trung tâm phối hợp với các cơ quan đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân,...) để giới thiệu thông tin về TGPL cho thành viên, hội viên của các tổ chức hoặc phối hợp với các Báo để đăng tải các câu chuyện pháp luật TGPL, hoạt động TGPL, giải đáp các vướng mắc về pháp luật mà người dân thường gặp; một số địa phương xây dựng chuyên mục câu chuyện TGPL trên báo địa phương.
[3] Trên VTV1 - chuyên mục Quốc hội với cử tri, Thời sự 19h, Phóng sự, Phần diễn án vụ việc TGPL thành công dành cho đối tượng người nghèo, chính sách, yếu thế trên VTV1, VTV2, VTV5.
[4] Như: (i) Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về việc người thực hiện TGPL trực tại Tòa án; (ii) Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về trực TGPL trong điều tra hình sự.
[5] Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
[6] Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ.
[7] Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ.
[8] Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, các Trung tâm TGPL đã thực hiện 83.389 vụ việc; trong đó có 67.748 vụ việc tham gia tố tụng (chiếm khoảng 77% tổng số vụ việc). Hầu hết các vụ việc được đánh giá đã chất lượng trở lên. Nhiều vụ việc tham gia tố tụng do người thực hiện TGPL được đánh giá là thành công (21.598 vụ việc)[8], có nhiều vụ án được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Tỷ lệ vụ việc thành công chiếm 31% tổng số vụ việc tham gia tố tụng thực hiện.