Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý và khả năng chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân xã hội có đủ năng lực thực hiện

26/09/2018
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về dịch vụ hành chính công được quy định rải rác trong hệ thống pháp luật và đã có những tác động tích cực trong quản lý, điều hành đối với các cơ quan hành chính ở trung ương và địa phương; vừa tăng cường kỷ cương hành chính, vừa từng bước tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho các ngành, các cấp trong quản lý hành chính nhà nước; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

I. Một số vấn đề chung về dịch vụ hành chính công
1. Khái niệm về dịch vụ hành chính công
Theo như cách hiểu thông thường hiện nay thì hành chính công là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước, sử dụng nguồn lực công để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao hoặc hoạt động của tổ chức, cá nhân được ủy quyền cung ứng dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Dịch vụ công là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức, do Nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện nhằm bảo đảm trật tự, lợi ích chung và công bằng xã hội. Xét theo lĩnh vực cung ứng dịch vụ, dịch vụ công gồm 3 loại: dịch vụ công trong lĩnh vực sự nghiệp; dịch vụ công trong lĩnh vực công ích và dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính nhà nước hay còn gọi là dịch vụ hành chính công. Như vậy, dịch vụ hành chính công là một bộ phận cấu thành của dịch vụ công và được hiểu như sau:
Dịch vụ hành chính công là loại dịch công vụ gắn liền với chức năng quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Theo đó, dịch vụ hành chính công là một loại dịch vụ công do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện để phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân. Nói cách khác, dịch vụ hành chính công là hoạt động thực thi pháp luật nhằm phục vụ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các tổ chức và công dân, do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền thực hiện trên cơ sở quy định của pháp luật (Theo Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, năm 2006, tr 453).
Theo Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử của các cơ quan nhà nước thì dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân.
Đến nay, khái niệm dịch vụ hành chính công đã được nghiên cứu và phát triển như sau: Dịch vụ hành chính công là dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật không vì mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân được ủy quyền thực hiện nhằm cung cấp thông tin, ban hành quyết định hành chính thực hiện giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân.
2. Đặc trưng dịch vụ hành chính công ở Việt Nam
Dịch vụ hành chính công Việt Nam có những đặc trưng, cụ thể là:
Việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn liền với thẩm quyền mang tính quyền lực pháp lý. Thẩm quyền này gắn liền với các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ có tính pháp lý của các tổ chức và công dân như cấp các loại giấy phép, giấy khai sinh, xử lý vi phạm hành chính… nhằm giải quyết quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân, là hoạt động phục vụ người dân từ phía cơ quan hành chính nhà nước.
- Dịch vụ hành chính công nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý của nhà nước. Bản chất dịch vụ hành chính công không thuộc về chức năng quản lý nhà ước song lại là những hoạt động nhằm phục vụ cho chức năng quản lý nhà nước. Chính vì vai trò phục vụ cho việc quản lý nhà nước đó mà nhiều lúc bị nhầm lẫn các dịch vụ này chính là hoạt động quản lý nhà nước. Dịch vụ hành chính công tuy là hoạt động phục vụ nhu cầu của người dân song những nhu cầu, đòi hỏi này không phải xuất phát từ nhu cầu tự thân của họ mà phát sinh xuất phát từ các quy định của Nhà nước để quản lý nhà nước được tốt hơn.
- Dịch vụ hành chính công là những hoạt động không vụ lợi, Nhà nước trang trải chi phí thực hiện các hoạt động này bằng ngân sách có nguồn thu từ thuế. Nếu có là thu tiền thì thu dưới dạng lệ phí đối với người cần dịch vụ để nộp ngân sách nhà nước, lệ phí không mang tính chất bù đắp hao phí lao động cho bản thân người cung cấp dịch vụ mà chủ yếu nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với người không sử dụng dịch vụ.
- Mọi người dân có quyền bình đẳng trong việc tiếp nhận và sử dụng các dịch vụ hành chính công với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Điều này xuất phát từ chỗ Nhà nước là một cơ quan công quyền được nhân dân lập ra để phục vụ lợi ích chung của công đồng. Vai trò của Nhà nước là bảo đảm sự ổn định, công bằng và hiệu quả của xã hội, vì vậy Nhà nước phục vụ cho quyền lợi của tất cả người dân theo nguyên tắc công bằng. Hơn nữa, các dịch vụ mà Nhà nước cung ứng mang tính chất bắt buộc đối với mọi đối tượng có liên quan, do đó nếu Nhà nước không thực hiện sự bình đẳng thì sẽ không thực hiện được quản lý của mình đối với xã hội.
Trong khi đó, trợ giúp pháp lý là một dịch vụ công, cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý thì Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý và Bộ Tư pháp được giao là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; Nghị định số 123/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, cơ quan ngang Bộ thì Bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về một hoặc một số ngành, lĩnh vực và dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc; Nghị định số 96/2017/CP-NĐ của Chính phủ ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp thì Bộ Tư pháp có chức năng quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ (trong đó có trợ giúp pháp lý). Xuất phát từ nhu cầu quản lý, trong trợ giúp pháp lý có một số dịch vụ đáp ứng được các tiêu chí, đặc trưng của dịch vụ hành chính công và cũng có những nhiệm vụ liên quan đến việc thực hiện thủ tục hành chính giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước (sẽ được xác định ở mục 1 phần 2 bài viết này).
3. Các loại hình cơ bản và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công ở Việt Nam
a) Dịch vụ hành chính công Việt Nam thường được thể hiện thông qua các loại hình cơ bản sau đây:
- Các hoạt động cấp giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Giấy phép là một loại giấy tờ do các cơ quan hành chính nhà nước cấp cho các tổ chức và công dân để thừa nhận về mặt pháp lý quyền của các chủ thể này được tiến hành một hoạt động nào đó phù hợp với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Giấy phép là một công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết hoạt động của các chủ thể theo chính sách và pháp luật trong các lĩnh vực có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống xã hội, mà nếu Nhà nước không kiểm soát được các hoạt động này thì có thể dẫn đến những hậu quả tai hại cho xã hội. Cấp giấy phép là nhóm dịch vụ thể hiện rõ nét nhất yếu tố quản lý hành chính. Giấy phép hành nghề/chứng chỉ hành nghề là một loại giấy tờ chứng minh chủ thể này có đủ khả năng và điều kiện hoạt động ở một ngành nghề nhất định. Việc cấp giấy phép hành nghề ở một số lĩnh vực là nhằm bảo đảm cho sự an toàn và lành mạnh trong lĩnh vực nghề nghiệp nhất là ở một số lĩnh vực đặc biệt cần có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cao.
- Hoạt động cấp đăng ký và giấy chứng nhận. Cấp đăng ký và cấp giấy chứng nhận là nhóm dịch vụ bao gồm nhiều dịch vụ nhất và liên quan đến hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương. Trong dịch vụ này, cá nhân, tổ chức phải đăng ký với cơ quan nhà nước các thông tin về nhân thân; về tài sản hoặc về những hành vi, những sự kiện nhất định liên quan đến cá nhân, tổ chức. Việc đăng ký và cấp giấy chứng nhận vừa bảo vệ trực tiếp quyền lợi của cá nhân, tổ chức thực hiện việc đăng ký vừa góp phần bảo vệ các bên liên quan trong các giao dịch.
- Hoạt động công chứng, chứng thực. Về tính chất cả công chứng, chứng thực đều là các hoạt động chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng, giao dịch hay các văn bản, giấy tờ mà theo quy định của pháp luật phải công chứng, chứng thực. Quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức có liên quan xác lập thông qua các hợp đồng, giao dịch hay văn bản, giấy tờ. Khi các giao dịch, hợp đồng, các văn bản, giấy tờ được công chứng, chứng thực thì phát sinh hiệu lực pháp lý, các quyền, nghĩa vụ trong giao dịch, hợp đồng, văn bản chính thức có hiệu lực ràng buộc các bên.
Hoạt động thu các khoản đóng góp vào ngân sách và các quỹ của Nhà nước. Các hoạt động này gắn với nghĩa vụ mà Nhà nước yêu cầu các chủ thể trong xã hội phải thực hiện.
Các hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vi phạm hành chính. Hoạt động này nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân.
b) Ở Việt Nam, các yếu tố có thể ảnh hướng đến chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công bao gồm:
Yếu tố về môi trường chính trị, pháp lý, đó chính là sự ổn định chính trị, là các chính sách, quy định pháp luật.
- Yếu tố về khả năng cung ứng dịch vụ của chủ thể cung ứng bao gồm các yếu tố thẩm quyền pháp lý, tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ hành chính công và chất lượng nguồn nhân lực.
- Yếu tố về yêu cầu của khách hàng: Khách hàng ngày càng đa dạng và có xu hướng gia tăng, khó đoán về nhu cầu cũng như yêu cầu.
- Yếu tố về điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật để cung cấp dịch vụ hành chính công.
Yếu tố về quy trình cung ứng dịch vụ hành chính công.
II. Các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
1. Các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
Việc xác định rõ các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi quản lý nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra các nhóm giải pháp nhằm tạo thuận lợi cho người dân thực hiện các quyền của mình, đồng thời Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình. Các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công thuộc phạm vi quản lý nhà nước trợ giúp pháp lý chính là các nhiệm vụ cụ thể liên quan đến việc thực hiện các dịch vụ hành chính công hoặc thủ tục hành chính do đơn vị mình trực tiếp thực hiện hoặc giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước. Như vậy, có những nhiệm vụ để thực hiện dịch vụ hành chính công, có những nhiệm vụ để thực hiện thủ tục hành chính do đơn vị mình trực tiếp thực hiện hoặc giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước.Như nêu ở phần trên, mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân. Theo Quyết định số 1540/QĐ-BTP ngày 06/7/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc công bố thủ tục hành chính mới ban hành và được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp thì trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý có 10 thủ tục hành chính đã được công bố. Tuy nhiên qua rà soát, vẫn còn 02 thủ tục hành chính chuẩn bị được công bố, đó là: thủ tục rút yêu cầu trợ giúp pháp lý và thủ tục đề nghị thay thế người thực hiện trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý.
 Từ khái niệm, đặc trưng, các loại hình cơ bản của dịch vụ hành chính công nêu ở phần trên, có thể thấy trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý sẽ có những nhiệm vụ để thực hiện dịch vụ hành chính công và  có nhiệm vụ để thực hiện thủ tục hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Theo đó, chia thành nhóm 05 nhóm nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tương ứng với các thủ tục hành chính, bao gồm các nhiệm vụ, dịch vụ như sau:
(1) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính thực hiện trợ giúp pháp lý (tương ứng với thủ tục hành chính về thụ lý yêu cầu trợ giúp pháp lý; không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý và thay thế người thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp người được trợ giúp pháp lý yêu cầu do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện).
 (2) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý (tương ứng với thủ tục hành chính lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện và Sở Tư pháp thực hiện).
 (3) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý (tương ứng với thủ tục hành chính cấp, thay đổi, cấp lại, chấm dứt giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp thực hiện).
(4) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý (tương ứng với thủ tục hành chính cấp thẻ, cấp lại thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp thực hiện).
(5) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý (tương ứng với thủ tục hành chính giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý do người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện).
2. Quy định pháp luật về các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
Thể chế các quan điểm, chủ trương của Đảng, trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý cũng đã có những quy định nhằm tăng cường hiệu quả của hoạt động hành chính công, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đa dạng hóa chủ thể tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý. Các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý đã được quy định trong các văn bản pháp luật sau: Luật Trợ giúp pháp lý, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/217 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 144), Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý (Thông tư số 08), Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý (Thông tư số 12).
a) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính thực hiện trợ giúp pháp lý
Nhiệm vụ này tương ứng với các thủ tục hành chính về thụ lý yêu cầu trợ giúp pháp lý, không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý và thay thế người thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp người được trợ giúp pháp lý yêu cầu, do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện. Nhiệm vụ này được quy định tại Điều 29 và Điều 30 Luật Trợ giúp pháp lý; Điều 33 Thông tư số 08 và Điều 5, Điều 6, Điều 9 Thông tư số 12.
- Nhiệm vụ thụ lý yêu cầu trợ giúp pháp lý: Đây là nhiệm vụ do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện. Theo đó, khi yêu cầu trợ giúp pháp lý, người yêu cầu phải nộp hồ sơ yêu cầu trợ giúp pháp lý cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh/thành phố hoặc tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Sau khi tiếp nhận hồ sơ, người tiếp nhận phải xem xét và trả lời ngay cho người yêu cầu về việc hồ sơ đủ điều kiện thụ lý hoặc phải bổ sung thêm giấy tờ, tài liệu có liên quan. Khi yêu cầu trợ giúp pháp lý đủ điều kiện thụ lý thì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thụ lý, trường hợp từ chối thụ lý thì thông báo rõ lý do bằng văn bản cho người yêu cầu. Trường hợp người yêu cầu chưa thể cung cấp đầy đủ hồ sơ nhưng cần thực hiện trợ giúp pháp lý ngay thì người tiếp nhận yêu cầu báo cáo người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và thụ lý ngay, đồng thời hướng dẫn người yêu cầu trợ giúp pháp lý bổ sung các giấy tờ, tài liệu cần thiết. Hoạt động này không phải nộp lệ phí.
- Nhiệm vụ không tiếp tục thực hiện trợ giúp pháp lý trong trường hợp người được trợ giúp pháp lý rút yêu cầu do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện. Nhiệm vụ, dịch vụ này được quy định tại khoản 6 Điều 8 và Điều 37 Luật Trợ giúp pháp lý và Khoản 2 Điều 9 Thông tư số 12. Theo đó, khi người được trợ giúp pháp lý có nguyện vọng rút yêu cầu trợ giúp pháp lý và gửi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Khi đó vụ việc trợ giúp pháp lý không được tiếp tục thực hiện và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý có trách nhiệm thông báo bằng văn bản ngay cho người được trợ giúp pháp lý. Hoạt động này không phải nộp lệ phí.
Nhiệm vụ thay thế người thực hiện trợ giúp pháp lý khi người được trợ giúp pháp lý có yêu cầuNhiệm vụ, dịch vụ này do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện và được quy định tại khoản 5 Điều 8 và khoản 1, khoản 2 Điều 25 Luật Trợ giúp pháp lý và Khoản 1 Điều 9 Thông tư số 12. Theo đó, khi người được trợ giúp pháp lý có căn cứ cho rằng người thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 thì họ làm đơn đề nghị thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý phải trả lời cho họ trong thời gian 03 ngày làm việc. Nếu người thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 thì phải cử người khác thực hiện trợ giúp pháp lý thay. Hoạt động này không phải nộp lệ phí.
Như vậy, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ ràng giấy tờ, tài liệu nộp yêu cầu trợ giúp pháp lý, cụ thể quyền đề nghị thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý và rút yêu cầu trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý. Đồng thời đã quy định rõ điều kiện thụ lý, nhằm nêu bật lên bản chất của trợ giúp pháp lý là vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý quy định tại Điều 7 và phù hợp với các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý. Một trong những điểm mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nữa là đã quy định trường hợp thụ lý ngay khi người yêu cầu chưa thể cung cấp hồ sơ theo quy định trong một số trường hợp cần thực hiện trợ giúp pháp lý ngay. Các quy định này đã thể hiện rõ nét quan điểm lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi tối đa để người dân biết và thực hiện quyền của mình.
b) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về  hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý
Nhiệm vụ này tương ứng với thủ tục hành chính lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện và Sở Tư pháp thực hiện.
Nhiệm vụ lựa chọn, ký hợp đồng với Luật sư do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện: Nhiệm vụ này được quy định tại khoản 3 Điều 14 Luật Trợ giúp pháp lý, từ Điều 3 - Điều 8 Thông tư số 08. Theo đó, căn cứ vào nguồn lực trợ giúp pháp lý tại địa phương, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý của Trung tâm để dự kiến số lượng luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và thông báo lựa chọn luật sư. Giám đốc Trung tâm quyết định thành lập Tổ đánh giá hồ sơ lựa chọn luật sư để lựa chọn hồ sơ luật sư. Trên cơ sở đó, Trung tâm có trách nhiệm thông báo kết quả lựa chọn đến các luật sư đã nộp hồ sơ và luật sư được lựa chọn có trách nhiệm ký hợp đồng với Trung tâm trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo. Hoạt động này không phải nộp lệ phí.
Nhiệm vụ lựa chọn, ký hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật do Sở Tư pháp thực hiện: Nhiệm vụ, dịch vụ này được quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Trợ giúp pháp lý, từ Điều 9 - Điều 13 Thông tư số 08. Cách thức thực hiện việc lựa chọn, ký hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật do Sở Tư pháp thực hiện tương tự với việc lựa chọn, ký hợp đồng với luật sư do Trung tâm trợ giúp pháp lý thực hiện. Hoạt động này không phải nộp lệ phí.
So với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, nhiệm vụ lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý là một điểm mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Thông qua nhiệm vụ này, Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý có thể ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất để cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý, đồng thời khuyến khích hơn nữa sự tham gia trợ giúp pháp lý có chất lượng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Có thể nói, với những quy định chặt chẽ này, Nhà nước đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
c) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý
Các dịch vụ này tương ứng với các thủ tục hành chính cấp, thay đổi, cấp lại, chấm dứt giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp thực hiện và được quy định tại Điều 15 và khoản 2, 3 Điều 16 Luật Trợ giúp pháp lý, từ Điều 19 - Điều 22 Thông tư số 08. Theo đó, khi tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có đủ điều kiện đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý thì nộp hồ sơ, Sở Tư pháp sẽ kiểm tra hồ sơ và cấp giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý nếu đủ điều kiện, thực hiện công bố danh sách tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Trường hợp thay đổi nội dung đăng ký thì tổ chức đăng ký nộp đơn đề nghị thay đổi và giấy đăng ký đến Sở Tư pháp để bổ sung nội dung thay đổi vào giấy đăng ký nếu hồ sơ hợp lệ. Tương tự, trường hợp bị mất, hư hỏng sẽ được cấp lại giấy đăng ký; trường hợp tổ chức đăng ký tham gia thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 16 thì sẽ bị chấm dứt tư cách tham gia trợ giúp pháp lý. Các hoạt động này không phải nộp lệ phí.
          Các dịch vụ này được Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định cụ thể. Việc quy định các điều kiện tối thiểu khi tham gia nhằm góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ do các tổ chức đăng ký tham gia cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý.
d) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý
Các dịch vụ này tương ứng với các thủ tục hành chính cấp thẻ, cấp lại thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý do Sở Tư pháp thực hiện và được quy định tại Điều 24 Luật Trợ giúp pháp lý và từ Điều 16 - Điều 19 Nghị định số 144. Theo đó, người có đủ tiêu chuẩn, có nguyện vọng và nhất trí với các nội dung cơ bản của hợp đồng thì gửi hồ sơ đến Trung tâm trợ giúp pháp lý. Căn cứ vào lựa chọn của Giám đốc Trung tâm, Giám đốc Sở Tư pháp xem xét cấp thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý và 30 ngày kể từ ngày được cấp thẻ, cộng tác viên có trách nhiệm đến Trung tâm để ký hợp đồng. Trường hợp thẻ cộng tác viên bị mất hoặc bị hư hỏng thì cộng tác viên làm đơn đề nghị, Giám đốc Trung tâm kiểm tra và đề nghị Giám đốc Sở Tư pháp quyết định cấp lại thẻ cộng tác viên. Các hoạt động này không phải nộp lệ phí.
Với những điều kiện, thủ tục do Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành đã chọn lọc những người có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn và bảo đảm về mặt thời gian tham gia trợ giúp pháp lý để làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý cung cấp dịch vụ có chất lượng cho người được trợ giúp pháp lý, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của công tác trợ giúp pháp lý trong xã hội.
đ) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý
Nhóm này tương ứng với thủ tục hành chính giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý do người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và Giám đốc Sở Tư pháp thực hiện.
Nhóm nhiệm vụ này được quy định tại Điều 45 Luật Trợ giúp pháp lý. Theo đó, người được trợ giúp pháp lý có quyền gửi đơn khiếu nại đến người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Người đứng đầu tổ chức thực hiện có trách nhiệm giải quyết, trường hợp người được trợ giúp pháp lý không đồng ý với quyết định giải quyết hoặc quá thời hạn mà không được giải quyết thì khiếu nại lên Giám đốc Sở Tư pháp giải quyết. Quyết định của Giám đốc Sở Tư pháp có hiệu lực thi hành. Trường hợp người được trợ giúp pháp lý không đồng ý với quyết định này hoặc quá thời hạn mà không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án. Hoạt động khiếu nại không phải nộp lệ phí. Khiếu nại trong hoạt động trợ giúp pháp lý là khiếu nại 04 hành vi trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý, khác với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính. Do đó, việc giải quyết khiếu nại trong hoạt động trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý mà không áp dụng, trình tự thủ tục chung về khiếu nại.
II. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
1. Kết quả thực hiện nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
a) Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, Nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là 1 khâu quan trọng trong thực hiện chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện đại. Theo công bố của Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ về chỉ số cải cách hành chính năm 2017 của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (PAR INDEX) và Chỉ số hài lòng về sự phục vụ hành chính năm 2017 (SIPAS) thì Bộ Tư pháp đứng thứ 4 trong các Bộ, ngành. Đây là thành quả chung của Bộ, trong đó có việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công về trợ giúp pháp lý.
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý có thể thấy rằng các quy định để thực hiện nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công là khá đầy đủ. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành mới có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, do đó, đến nay chưa các công việc triển khai mới đang ở bước đầu, do đó cần thời gian để kiểm chứng trên thực tiễn. Để triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành nói chung và triển khai các nhóm nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý nói riêng, trong năm 2018 Bộ Tư pháp và các địa phương đã tích cực triển khai các công việc. Kết quả cụ thể như: 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật, đa số địa phương đã tổ chức Hội nghị quán triệt Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành; nhiều địa phương đang tổ chức triển khai việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; tăng cường hoạt động truyền thông về Luật Trợ giúp pháp lý và hoạt động trợ giúp pháp lý; rà soát tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, người tham gia trợ giúp pháp lý phù hợp với quy định Luật Trợ giúp pháp lý, người được trợ giúp pháp lý trên địa bàn để báo cáo về Bộ Tư pháp năm 2018.v.v. Tuy nhiên, đến nay chưa có đầy đủ số liệu, báo cáo của các địa phương về kết quả đạt được cũng như khó khăn, vướng mắc khi thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý. Do đó, xin điểm qua một số kết quả đạt được như sau:
 (1) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính thực hiện trợ giúp pháp lý, do tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện.
Qua báo cáo của các địa phương, trong năm 2017, toàn quốc thụ lý 84.825 vụ việc (hoàn thành 79.186 vụ việc), trong đó có 15.519 vụ việc tham gia tố tụng. Trong 06 tháng đầu năm 2018, toàn quốc thụ lý 27.732 vụ việc (hoàn thành 20.125 vụ việc hoàn thành), trong đó có 10.307 vụ việc tham gia tố tụng.
(2) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý, do Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện và Sở Tư pháp thực hiện.
Qua nắm bắt trong quá trình quản lý, nhiệm vụ này đang được các địa phương lập kế hoạch và triển khai các công việc để ký hợp đồng với tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý và luật sư. Đến nay, một số Sở Tư pháp đã thực hiện ký hợp đồng với các tổ chức như: Vĩnh Phúc (đã ký hợp đồng với 04 tổ chức hành nghề luật sư), Đồng Tháp (đã ký hợp đồng với 02 tổ chức tư vấn pháp luật), một số Trung tâm đã ký hợp đồng với luật sư như (Hà Giang ký hợp đồng với 05 luật sư, Vĩnh Phúc ký hợp đồng với 04 luật sư, Thừa Thiên - Huế ký hợp đồng với 05 luật sư, Quảng Trị ký hợp đồng với 03 luật sư, Tây Ninh ký hợp đồng với 10 luật sư, Đồng Tháp ký hợp đồng với 20 luật sư...).
(3) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, do Sở Tư pháp thực hiện.
Qua báo cáo của các địa phương, nhóm nhiệm vụ, dịch vụ này thì trong năm 2017 trên toàn quốc có 336 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý (trong đó có 284 tổ chức hành nghề luật sư, 52 Trung tâm tư vấn pháp luật). Từ đầu năm 2018 đến nay, một số Sở Tư pháp đã cấp Giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý cho các tổ chức (Vĩnh Long, Thừa Thiên - Huế, Đồng Tháp…).
 (4) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các dịch vụ hành chính công về thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý, do Sở Tư pháp thực hiện.
Qua báo cáo của các địa phương, nhóm nhiệm vụ, dịch vụ này thì trong năm 2017 trên toàn quốc có 7.077 cộng tác viên trợ giúp pháp lý (trong đó có 997 luật sư, 218 tư vấn viên pháp luật, 5.862 cộng tác viên khác). Trong năm 2017, các cộng tác viên thực hiện được 33.146 vụ việc/79.186 vụ việc trợ giúp pháp lý. Từ đầu năm 2018 đến nay, một số Trung tâm đã ký hợp đồng với cộng tác viên (như: Đồng Tháp ký 08 cộng tác viên,…).
(5) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý, do người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, giám đốc Sở Tư pháp thực hiện.
Qua báo cáo của các địa phương, nhóm nhiệm vụ giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý trong năm 2017 không có vụ việc nào.
b) Những khó khăn, hạn chế
- Quy định chung về quản lý dịch vụ hành chính công còn chưa cụ thể.
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã quy định về việc ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý, tuy nhiên chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể để phát huy hiệu quả của quy định này.
- Hiện nay chưa công bố hết các thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nói chung và trong việc thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý đang ở giai đoạn bước đầu.
- Công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý chưa đạt được hiệu quả cao.
- Nguồn lực (con người và tài chính) chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của xã hội.
III. Đánh giá về khả năng chuyển giao cho các tổ chức xã hội có đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
1. Dự báo nhu cầu của xã hội
a) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính thực hiện trợ giúp pháp lý
Hiện nay, các địa phương đang rà soát diện người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 để xác định nhu cầu trợ giúp pháp lý, phải đến hết năm 2018 mới có kết quả báo cáo về Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, theo báo cáo năm 2013 của các địa phương thì người thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 trên toàn quốc khoảng 23 triệu người/89 triệu dân số. Trong khi đó diện người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã mở rộng từ 06 diện lên 14 diện người. Do đó, nhu cầu trợ giúp pháp lý trong xã hội là rất lớn. Hiện nay, nhóm nhiệm vụ thực hiện trợ giúp pháp lý do lực lượng Nhà nước và lực lượng xã hội cùng thực hiện. Đó chính là các Trung tâm trợ giúp pháp lý do Nhà nước thành lập và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, luật sư, cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Việc huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý tức là nhà nước khuyến khích sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhưng đây vẫn là trách nhiệm của Nhà nước và Nhà nước vẫn phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện trợ giúp pháp lý.
b) Nhóm nhiệm vụ về thủ tục huy động lực lượng xã hội tham gia trợ giúp pháp lý (bao gồm các nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về: hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý; đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý; thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý)
Tính đến tháng 6/2018, trên cả nước có 4.028 tổ chức hành nghề luật sư (trong đó có 2.367 văn phòng luật sư, 1.661 công ty luật), 12.569 luật sư, khoảng 200 tổ chức tư vấn pháp luật và đông đảo luật gia có kinh nghiệm đã về hưu. Như vậy, số lượng tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý so với tổng số nêu trên còn chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Do đó, cùng với những điểm mới của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, dự kiến trong những năm tiếp theo sẽ thu hút được số lượng lớn tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý bằng các phương thức khác nhau (đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý hoặc ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý).
c) Nhóm nhiệm vụ để thực hiện các thủ tục hành chính về giải quyết khiếu nại về trợ giúp pháp lý
Như đã trình bày ở trên, việc khiếu nại về trợ giúp pháp lý trong những năm qua hầu như không có. Tuy nhiên, khi xã hội phát triển, trình độ dân trí pháp lý cao lên thì việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại có thể tăng lên so với hiện nay. Việc giải quyết khiếu nại trong hoạt động trợ giúp pháp lý cũng khác so với giải quyết khiếu nại thông thường, đó là khiếu nại đối với các hành vi trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý (không phải quyết định, hành vi hành chính), do vậy Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu là người đứng đầu tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (bao gồm người đứng đầu Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật).
2. Đề xuất chuyển giao thực hiện các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Từ Đại hội IX (năm 2001) đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, trong đó đã chỉ rõ những định hướng lớn về hành chính công như: “Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp”[1]; “tách hệ thống cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp; phát triển mạnh các dịch vụ công cộng”; Đặt yêu cầu cải cách thủ tục hành chính ngay trong quá trình xây dựng thể chế, … chuẩn mực quốc gia về thủ tục hành chính; giảm mạnh các thủ tục hiện hànhĐẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và điều hành của hệ thống hành chính nhà nước các cấp[2]; “đẩy mạnh xã hội hóa đối với cung cấp các dịch vụ công[3]. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 5 và 6 BCHTW (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 về phát triển kinh tế tư nhân: “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hoá dịch vụ hành chính công”; Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả: “Chuyển một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm”. Do vậy, việc xác định nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công nào đủ điều kiện để có thể chuyển giao được cho xã hội đảm nhiệm là một nhiệm vụ rất quan trọng. Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cũng đã đưa ra nhiệm vụ "phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao với hoạt động kinh doanh dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập"; rà soát để "xác định các dịch vụ sự nghiệp công do ngân sách nhà nước phải bảo đảm, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn".
Hiện nay, việc chuyển hóa các dịch vụ công được thực hiện theo hai cách thức cơ bản, đó là: (1) Nhà nước huy động sự tham gia của các nguồn lực (nhân lực, tài lực) thuộc khu vực ngoài Nhà nước vào cung ứng dịch vụ; (2) Nhà nước từng bước chuyển giao dịch vụ cho các cá nhân, tổ chức ngoài Nhà nước thực hiện. Tuy nhiên, lựa chọn cách thức nào là do khả năng tham gia của xã hội quyết định mà khả năng đó phụ thuộc chủ yếu vào các điều kiện kinh tế - xã hội khách quan ở từng giai đoạn phát triển, không thể tuỳ thuộc vào ý muốn chủ quan của Nhà nước.
Trong khi đó đặc thù hoạt động trợ giúp pháp lý là hoàn toàn miễn phí đối với người thụ hưởng, người thực hiện không được nhận bất kỳ khoản thù lao, lợi ích vật chất hoặc lợi ích nào khác từ người được trợ giúp pháp lý (khác với các dịch vụ có thu phí trong các hoạt động y tế, giáo dục, công chứng…). Do vậy, nếu hoạt động trợ giúp pháp lý được thực hiện theo hướng chuyển giao hoạt động trợ giúp pháp lý cho xã hội thực hiện toàn bộ là không khả thi, bởi vì: Khi đó lực lượng xã hội nào sẽ đứng ra đảm nhiệm nhiệm vụ  này, liệu có bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý không? có đáp ứng được nhu cầu trợ giúp pháp lý của xã hội, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt - khó khăn không? có bảo đảm chất lượng dịch vụ cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý không? Bởi lẽ, các lực lượng xã hội hiện nay có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý (là các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, luật sư) không phải là lực lượng chuyên thực hiện trợ giúp pháp lý và đây không phải là công việc chính của họ. Hơn nữa, số lượng luật sư so với dân số còn chiếm tỷ lệ thấp, phát triển mất cân đối giữa các khu vực thành thị - nông thôn, miền núi - đồng bằng. Số lượng luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn (như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ), trong khi đó, một số địa phương ở miền núi đội ngũ luật sư rất hạn chế (như Lâm Đồng, Bắc Kạn, Điện Biên, Kom Tum, Hà Giang...).
Vì vậy, xác định trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã quy định trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước đối với người nghèo và đối tượng yếu thế; Nhà nước phải có chính sách thu hút các nguồn lực thực hiện trợ giúp pháp lý, hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp cho hoạt động trợ giúp pháp lý. Trong quá trình này, các tổ chức cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý của Nhà nước vẫn thực hiện việc cung cấp dịch vụ, đồng thời Nhà nước huy động các nguồn lực xã hội, bao gồm nguồn nhân lực xã hội tham gia vào việc cung cấp dịch vụ này và các nguồn tài lực từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hỗ trợ hoạt động trợ giúp pháp lý. Do đó, trong lĩnh vực này, chuyển giao cho các xã hội thực hiện không phải là tư nhân hoá và cũng không phải là Nhà nước “khoán trắng”, chuyển giao cho xã hội đảm nhiệm hoàn toàn mà chính là đa dạng hóa, xã hội hóa nguồn lực tham gia hoạt động này.
Như đã phân tích ở mục 2 phần 2, Nhà nước đã chuyển giao cho xã hội thực hiện một phần và được pháp luật hóa bằng các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, theo đó việc thực hiện trợ giúp pháp lý hiện nay được áp dụng theo mô hình hỗn hợp bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư tham gia trợ giúp pháp lý (bằng hình thức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý bằng nguồn lực của mình hoặc bằng hình thức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý).
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã giao quyền xác định mức độ tham gia của các lực lượng xã hội vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý ở địa phương. Bởi vì, về bản chất, việc thực hiện trợ giúp pháp lý diễn ra ở các địa phương, mỗi địa phương có nhu cầu cũng như điều kiện và khả năng đáp ứng khác nhau, do đó sẽ không có "áo khoác chung" cho tất cả các địa phương trên toàn quốc. Theo đó, Luật quy định căn cứ yêu cầu trợ giúp pháp lý và thực tiễn tại địa phương (bao gồm nhu cầu trợ giúp pháp lý, nguồn lực thực hiện và khả năng cung ứng dịch vụ của lực lượng Nhà nước) để xác định mức độ thu hút các tổ chức, cá nhân xã hội tham gia trợ giúp pháp lý. Thông tư số 08 cũng đã quy định chi tiết nội dung này, khi giao quyền cho địa phương căn cứ vào khả năng đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước dựa trên kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý của năm trước, số lượng trợ giúp viên pháp lý, số lượng luật sư ký hợp đồng và nguồn lực khác của Trung tâm, kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý, số lượng vụ án được xét xử của năm trước, tổng số người được trợ giúp pháp lý, biến động của dân số địa phương và các nội dung khác có tác động tới công tác trợ giúp pháp lý tại địa phương để dự kiến được số lượng tổ chức, luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý.
Hơn nữa, mô hình hỗn hợp giữa Nhà nước và các lực lượng xã hội cùng thực hiện trợ giúp pháp lý là mô hình tối ưu đã được các nước trên thế giới chứng minh hiệu quả. Nhà nước huy động các lực lượng xã hội thực hiện trợ giúp pháp lý cùng mình đồng thời thực hiện giám sát, quản lý việc cung cấp dịch vụ của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Đây là xu hướng phổ biến nhất hiện nay vì nó đem lại nhiều hiệu quả tích cực, tạo sự cạnh tranh chống độc quyền trong việc cung cấp trợ giúp pháp lý đồng thời chia sẻ trách nhiệm với nhà nước. Nhiều nước áp dụng mô hình này (như Nhật Bản, Ailen, bang Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada), Malaysia, Israel,…), thậm chí có nước theo mô hình xã hội hóa hoàn toàn hoạt động trợ giúp pháp lý cũng đã chuyển sang mô hình hỗn hợp (như Nhật Bản, Nam Phi).
Tóm lại, đối với một chủ trương, chính sách lớn và mang đầy tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc như trợ giúp pháp lý thì Nhà nước cần giữ vai trò tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và huy động các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý. Nếu giao toàn bộ hoạt động này cho xã hội sẽ dẫn đến việc chăm lo, trách nhiệm với người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội có thể bị sao nhãng. Như vậy, xã hội hóa hay chính là đa dạng hóa chủ thể tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý đã tiếp tục khẳng định được vai trò, trách nhiệm và sự thích ứng của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp. Tuy nhiên, đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý ở nước ta cần có bước đi phù hợp và phụ thuộc vào khả năng đáp ứng của các tổ chức cung cấp dịch vụ của Nhà nước và chính sách huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trợ giúp pháp lý.
3. Các giải pháp để nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công trong quản lý trợ giúp pháp lý
- Hoàn thiện thể chế, chính sách, cơ chế quản lý và tổ chức cung ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của từng loại hình dịch vụ công, trong đó tính đến đặc thù đối với những dịch vụ là trách nhiệm của Nhà nước.
- Trong bối cảnh đang xây dựng Chính phủ điện tử cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và trong quản lý trợ giúp pháp lý nói riêng, nhất là trong việc giám sát, đánh giá chất lượng và hiệu quả trợ giúp pháp lý.
- Tiếp tục nâng cao năng lực (kiến thức, kỹ năng, đạo đức nghề nghiệp) thực hiện trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý thông qua các hình thức khác nhau như các lớp tập huấn,…
- Tiếp tục nghiên cứu và đổi mới phát huy tốt mọi nguồn lực của xã hội cho hoạt động trợ giúp pháp lý:
+ Có cơ chế ưu tiên, ưu đãi về cơ sở vật chất, kinh phí cho các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia trợ giúp pháp lý, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Cần lưu ý trợ giúp pháp lý là một dịch vụ pháp lý không có thu, hoàn toàn miễn phí đối với người thụ hưởng thì để tăng cường xã hội hóa hoạt động này thì càng cần thiết phải có cơ chế ưu tiên, ưu đãi để huy động nhiều hơn nữa các tổ chức, cá nhân tham gia.
+ Cụ thể các quy định về vinh danh, khen thưởng cho các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật, luật sư có nhiều đóng góp tích cực cho hoạt động trợ giúp pháp lý (trong thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, trong hỗ trợ kinh phí, truyền thông... cho hoạt động trợ giúp pháp lý).
+ Hỗ trợ tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý nâng cao kiến thức kỹ năng nghề nghiệp; tiếp tục nghiên cứu các quy định để đơn giản hóa các thủ tục tham gia, tăng thù lao vụ việc trợ giúp pháp lý để thu hút được ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý.
- Tăng cường, đa dạng hóa các hoạt động truyền thông về xã hội hóa trợ giúp pháp lý để nhiều tổ chức, cá nhân biết đến ý nghĩa nhân văn của hoạt động trợ giúp pháp lý.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý với các cơ quan chủ quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật để quản lý hoạt động trợ giúp pháp lý của các luật sư, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý.
- Có các biện pháp để tranh thủ hỗ trợ về kỹ thuật, kinh phí của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước cho việc nâng cao chất lượng hoạt động, đặc biệt trong việc tăng cường năng lực cho người thực hiện trợ giúp pháp lý, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân…./.

- Thanh Trịnh -


[1] Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2001- 2006 (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng).
[2] Báo cáo chính trị của BCH TW Đảng khoá IX tại ĐHĐB toàn quốc lần thứ X của Đảng
[3] Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020
 

Xem thêm »