Những bài học từ kinh nghiệm luật sư công ở Mỹ

16/02/2024
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Theo quy định tại Hiến pháp quốc gia, quyền có luật sư, sử dụng luật sư công ở Mỹ đã có 60 năm, theo quyết định của Tòa án tối cao năm 1963, quyền có luật sư được quy định trên toàn liên bang nhưng việc thực hiện là do các bang và chính quyền cơ sở, kết quả là quy định này mang lại hiệu quả.

Khi nguồn lực và sự độc lập được bảo đảm thì luật sư có thể làm việc hiệu quả và bảo vệ được quyền lợi của khách hàng. Nếu ngược lại thì bất bình đẳng sẽ xảy ra. Bởi những yêu cầu về ngân sách của chính quyền địa phương nên luật sư công thường phải đối mặt với những áp lực tài chính, những áp lực này ảnh hưởng đến sự độc lập của họ và khả năng đại diện, bào chữa cho khách hàng. Những tiêu chuẩn của Đoàn Luật sư rất hữu ích trong việc bảo vệ sự độc lập và trong việc ủng hộ những yêu cầu cung cấp tài chính ở mức thích hợp.
Lịch sử nước Mỹ và văn học đã có rất nhiều ví dụ về những luật sư dũng cảm đứng lên bảo vệ những nguyên tắc của nước Mỹ về tự do và công lý, Clarence Darrow, Danial Webster, Thurgood Marshall và trong tiểu thuyết là Atticus Finch trong tác phẩm “Giết con chim nhại” Truyền hình và phim đã tôn vinh những luật sư anh hùng và một vài luật sư đã bước ra từ phòng xử án để đến phòng thu như là những luật sư nổi tiếng và những nhà bình luận.
Những cuộc chiến đấu không kém phần khốc liệt nhưng lại quan trọng đang diễn ra hàng ngày, những luật sư công bào chữa cho hàng trăm khách hàng trong nhiều vụ việc khác nhau, từ trộm cắp đến giết người, trong những vụ chưa thành niên đến những vụ việc liên quan, vụ việc của người bị tâm thần. Thay vì việc phải bảo vệ cho 1 khách hàng 1 lần trong 1 tháng, luật sư Perry Mason hoặc Johnnie Cochran thường phải bào chữa cho 5 khách hàng trong 1 buổi sáng, lên lịch làm việc với 30 khách hàng hoặc ngày cuối tuần phải chuẩn bị bào chữa cho 3 vụ của tuần sau. Khách hàng của họ không có tiền nhưng họ có quyền có luật sư giống như những người giàu có hơn.
Đã 60 năm kể từ khi Toà án tối cao Mỹ ra quyết định tuyên bố rõ ràng là những người bị tình nghi tham gia tố tụng tại Toà án hình sự bang thì được Toà án cử luật sư.
(1) Trong hệ thống tư pháp hình sự của chúng ta bất kỳ người nào bị xét xử trước Toà án mà quá nghèo không thể thuê luật sư thì không thể có phiên toà công bằng trừ khi có luật sư. Đây là một điều hiển nhiên đúng. Chính phủ, bang và liên bang dùng rất nhiều tiền để thiết lập một bộ máy cố gắng buộc tội bị cáo. Cả luật sư và công tố viên có mặt ở tất cả mọi nơi để bảo vệ lợi ích công cộng trong một xã hội có trật tự. Tương tự như thế, có một vài bị cáo phạm tội (rất ít) không thuê được luật sư tốt, họ tự bào chữa cho mình. Việc Chính phủ thuê luật sư để buộc tội và bị đơn có tiền thì thuê luật sư bảo vệ là những chỉ số mạnh mẽ nhất khẳng định sự có mặt của luật sư ở toà hình sự là việc làm cần thiết chứ không phải là một điều xa xỉ. Quyền có luật sư của một người vi phạm pháp luật hình sự không được coi là một quyền cơ bản đối với một phiên toà công bằng ở một số nước nhưng ở Mỹ thì được khẳng định.
Từ rất sớm, Hiến pháp, pháp luật Mỹ đã đưa ra những bảo đảm ổn định và mang tính thủ tục để bảo đảm có phiên toà công bằng và độc lập tại Toà án nơi mà mỗi bị cáo đều có quyền bình đẳng trước pháp luật. Ý tưởng cao quý này không thể trở thành hiện thực nếu người nghèo vi phạm pháp luật hình sự và phải đối mặt với người buộc tội mà không có luật sư giúp đỡ. Nhu cầu cần luật sư của bị cáo được ông Justice Sutherland nêu trong vụ Powel kiện Alamaba:
Quyền được lắng nghe trong nhiều vụ việc có vẻ không có ý nghĩa nếu quyền này không được thể hiện bằng quyền được luật sư lắng nghe. Thậm chí những người thông minh và được giáo dục có ít kỹ năng hoặc đôi khi không có kỹ năng trong khoa học luật, nếu vi phạm luật hình sự thì không có khả năng tự xác định xem việc kết án đúng hay sai. Anh ta không quen với những quy tắc về chứng cứ. Không có sự giúp đỡ của luật sư anh ta có thể phải chịu một hình phạt không thích hợp và bị kết tội với chứng cứ không có giá trị pháp lý hoặc chứng cứ không liên quan đến vụ việc hoặc có thể bị phủ nhận. Anh ta thiếu cả kỹ năng và kiến thức cần thiết để chuẩn bị bảo vệ cho mình kể cả khi anh ta là một người hoàn hảo. Anh ta cần sự hướng dẫn của luật sư trong tất cả các giai đoạn tố tụng. Thiếu sự giúp đỡ đó thì dù là vô tội nhưng anh ta phải đối mặt với nguy cơ bị buộc tội vì không biết cách chứng minh sự vô tội của mình.
Hiến pháp bang và liên bang quy định về quyền có luật sư. Hiến pháp liên bang phần sửa đổi thứ 6 quy định như sau:
Quyền của bị cáo trong khởi tố hình sự
Trong tất cả vụ khởi tố hình sự bị cáo có quyền có một phiên toà kịp thời và công khai do Hội đồng xét xử độc lập của bang và quận nơi xét xử  tội phạm và được thông báo về bản chất và nguyên nhân buộc tội; đương đầu với nhân chứng chống lại anh ta, quy trình bắt buộc để có nhân chứng có lợi cho bị cáo và có luật sư giúp đỡ.
Các bang có nhiều quy tắc Toà án, các nghị định của địa phương và tiêu chuẩn của Đoàn Luật sư liên quan đến việc bào chữa công. Có nhiều hệ thống bào chữa khác nhau ở các bang và địa hạt. Một số bang có chính quyền địa phương cung cấp dịch vụ bào chữa. Có nhiều hệ thống các văn phòng có tổ chức rộng khắp với sự chỉ định các luật sư, địa hạt ký hợp đồng với các công ty luật không thu lợi nhuận, Đoàn Luật sư do các cán bộ chính quyền địa phương, và hệ thống không chính thức do các thẩm phán điều hành với những sự bảo trợ xấu nhất. Dần dần, hình thành xu hướng là Nhà nước phải bảo trợ cho hoạt động của luật sư công vì nếu không thì chính quyền địa phương phải chu cấp cho dịch vụ luật sư công. Và cũng đã hình thành xu hướng thành lập các văn phòng luật sư công thay thế để giải quyết các vụ việc có mâu thuẫn về quyền lợi cho các văn phòng chính trong phạm vi thẩm quyền.
Bang Washington có hệ thống luật sư do chính quyền địa phương trả tiền ở cấp Toà án với một số có hỗ trợ của bang. Bang hỗ trợ kinh phí ở cấp Toà án kháng cáo, ký hợp đồng với một phần của bang và cung cấp dịch vụ không chính thức ở một số khu vực khác của bang. Ở khu vực nông thôn rộng lớn nhất là King County sử dụng mô hình luật sư không thù lao, khu vực này địa hạt ký hợp đồng với 5 công ty để cung cấp dịch vụ bào chữa. Hai địa hạt lớn tiếp theo sử dụng dịch vụ của các văn phòng cơ quan Chính phủ.
Sau một vài báo cáo của nhóm làm nhiệm vụ đặc biệt và nghiên cứu có tính chất lập pháp, cơ quan lập pháp của bang đã thông qua đạo luật yêu cầu chính quyền địa phương xác định những chuẩn mực nhất định về tiêu chuẩn trợ giúp pháp lý và trách nhiệm giải trình nhưng không cung cấp tài chính mà nhóm làm nhiệm vụ đặc biệt gợi ý. Hai ưu điểm cơ bản của đạo luật là xác định được chi tiết những điều kiện để được bào chữa công và đề cập đến một bộ tiêu chuẩn do Đoàn Luật sư bào chữa công của Washington soạn thảo và do Đoàn Luật sư Washington thông qua. Những tiêu chuẩn này bao gồm cả việc xác định số vụ việc tối đa mà luật sư được nhận, cho phép nhiều luật sư công của địa phương nhận kinh phí.
Rõ ràng tình trạng quá tải công việc của luật sư đã quá mức nếu không nói là đến mức tồi tệ. Khi đưa ra kết luận này chúng tôi không chỉ dựa trên ý kiến chủ quan của chúng tôi mà còn dựa trên kinh nghiệm của luật sư và căn cứ vào những yêu cầu thanh toán thù lao của luật sư về việc đại diện, bào chữa cho bị cáo nghèo trước Tòa án. Chúng tôi vẫn rút ra kết luận này mặc dù con số thống kê cho thấy rằng có một số vụ thì đối tượng không thuộc diện trợ giúp. Thực tế một bị cáo phạm trọng tội trong số 149 bị cáo phạm trọng tội khác được bào chữa với chất lượng không tốt thì không có nghĩa là những vụ việc còn lại được bào chữa với chất lượng tốt. Tình trạng quá tải này sẽ dẫn đến hậu quả là Tòa án che dấu, đặc biệt là tòa kháng cáo, và như vậy tình trạng quá tải công việc của luật sư sẽ gây thiệt hại cho chính những bị cáo.
Khi những phiên tòa bắt đầu sau khi được giao nhiệm vụ, nếu quy trình lựa chọn và trả thù lao cho luật sư cũ vẫn được áp dụng đối với vụ việc này thì có thể rút ra kết luận là quy trình đó dẫn đến việc luật sư giúp đỡ không hiệu quả và kết luận này sẽ khiến nhà nước phải gánh chịu áp lực là phải hạn chế vụ việc.
Bang Arizona
Tổng Chưởng lý của Mỹ Janet Reno đã viết nhân ngày pháp luật như sau: Việc chỉ định luật sư là quan trọng đối với một phiên tòa công bằng, không chỉ đối với bị cáo mà còn có ý nghĩa đối với cộng đồng. Việc này giúp việc phán quyết có tội hay không có tội được chính xác. Việc đại diện, bào chữa không thích hợp sẽ đặt ra vấn đề kết tội có hợp pháp không.
Để hệ thống tư pháp hình sự và tư pháp người chưa thành niên thực hiện tốt chức năng của mình thì một hệ thống luật sư bào chữa cho người nghèo đủ mạnh do Nhà nước trả tiền là thật sự cần thiết. Quỹ trả thù lao cho luật sư nên bao gồm cả thù lao cho luật sư, các nguồn lực và chuyên gia, ví dụ như tiếp cận với công nghệ mới có thể thiết lập sự vô tội hoặc có tội cho bị cáo.
Ở địa hạt King, Washington, chính quyền địa phương cung cấp hệ thống bào chữa công, hệ thống này được thiết lập để cung cấp dịch vụ bào chữa có hiệu quả. Luật của hạt này yêu cầu dịch vụ bào chữa công phải do các tổ chức không có mục đích lợi nhuận cung cấp và chỉ định đích danh các luật sư. Có giới hạn về số lượng vụ việc, việc này giúp các luật sư có thể cung cấp dịch vụ có chất lượng cho khách hàng nhưng tính chất phức tạp của pháp luật ngày càng tăng khiến việc này trở thành một thử thách đối với các luật sư khi phải đáp ứng yêu cầu của 150 khách hàng phạm trọng tội mỗi năm. Ở hạt King luật sư phải đối mặt với hạn chế về kinh phí để điều tra và những hoạt động phụ trợ khác, thậm chí những vụ việc phức tạp hơn và nghiêm trọng hơn cũng không được cấp kinh phí cao hơn. Họ phải thực hiện nhiều vụ việc hơn so với hướng dẫn của Đoàn Luật sư. Điều tra viên có thu nhập trung bình thấp hơn khoảng 31% so với những đồng nghiệp làm việc trong cơ quan Chính phủ. Họ phải làm việc với những trang thiết bị cũ kỹ và bị cắt giảm ngân sách trong mấy năm gần đây. Kinh phí dành cho chuyên gia và công nghệ mới cũng bị hạn chế.
Ở một số hạt và thành phố nhỏ khác, vấn đề này còn phức tạp hơn. Ở nhiều thành phố, tình trạng quá tải công việc đối với luật sư đã trở nên nghiêm trọng và các nguồn lực lại bị hạn chế đến mức con số những công dân bị buộc tội ở Tòa án hàng ngày đã tạo nên sự chế nhạo của tư pháp. Ở nhiều khu vực, khách hàng là người chưa thành niên phải đối mặt với việc từ chối của luật sư, sự khước từ của Tòa án hoặc nhận được sự giúp đỡ của những luật sư ít kinh nghiệm hoặc luật sư đã bị quá tải công việc nghiêm trọng.
Một ví dụ về chi phí cao cho việc thuê người đại diện thích hợp xảy ra trong những vụ án tử hình ở Tacoma, Washington. Trong vụ Harris kiện Wood, Tòa án Mỹ kháng cáo, Circuit thứ chín phát hiện ra rằng số lượng và tính nghiêm trọng của lỗi do luật sư chỉ định nghiêm trọng tới mức phiên tòa đã không công bằng. Luật sư không điều tra kỹ lưỡng những sự kiện liên quan đến trách nhiệm của mình nên đã không chuẩn bị bài bào chữa tốt. Luật sư không có chuyên gia để chuẩn bị những kiến thức lịch sử, xã hội cần thiết và không thuê điều tra viên để phỏng vấn nhân chứng và chỉ phỏng vấn 3 trong số 32 người trong báo cáo của cảnh sát. Luật sư không có sự đánh giá độc lập về những chứng cứ mang tính pháp lý và chỉ sử dụng 1 tiếng và 48 phút trao đổi với khách hàng của mình trước khi mở phiên tòa. Tòa án nhận thấy rằng ở phần tranh luận kết thúc phiên tòa luật sư đã tấn công niềm tin của khách hàng và thậm chí cả tính nhân văn của họ. Kết quả là bị cáo bị kết án tử hình, trong một vụ việc bị cáo được cho rằng là vô tội và sau mấy năm kiện tụng bản án được xem xét lại.
Những ví dụ trên toàn nước Mỹ và gần đây 12 tù nhân bị kết án tử hình đã được thả, đó là kết quả của sự nỗ lực của sinh viên, nhà báo và luật sư ở Illinois.
Lời hứa trong vụ Gideon không thực hiện được. Bị cáo bị kết án tử hình trong những trường hợp luật sư say rượu, luật sư không điều tra, Tòa án từ chối cung cấp nhân chứng, luật sư không có kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự.
Nhưng với nguồn lực và sự độc lập, dịch vụ bào chữa công có thể hiệu qủa. Đoàn Luật sư ở Hạt King đã được hoan nghênh như một mô hình tiêu biểu với những người giám sát có kinh nghiệm, những nhà hoạt động xã hội, đào tạo và quá tải công việc. Các luật sư của Đoàn đã nhận được giải thưởng quốc gia và sáng lập đội thiếu niên giúp đỡ pháp lý cho người chưa thành niên phải chịu trách nhiệm hình sự, họ có những nhu cầu cần thiết như giáo dục đặc biệt. Họ có nguồn lực để điều tra vụ việc, kiểm tra việc buộc tội, đấu tranh tại tòa kháng cáo và trình tự, thủ tục có thể đe dọa quyền lợi của khách hàng. Họ đã chứng minh những khách hàng của mình, những người bị kết án về tội giết người trở thành vô tội, họ đưa ra những hình phạt thay thế, họ giúp cha mẹ của những đứa trẻ phản đối hành động chuyên quyền, độc đoán của Chính phủ. Họ có chương trình thực tập pháp luật vững mạnh, thu hút sinh viên ở khắp đất nước, một chương trình huấn luyện cán bộ điều tra.
Trong khi một số tổ chức khắp đất nước cung cấp dịch vụ đại diện, bào chữa có chất lượng cho khách hàng của họ, những tổ chức khác không có nguồn lực để làm như vậy. Báo cáo của Stephen Bright về câu chuyện của 1 luật sư công ở bang New Orleans, người đã bào chữa cho 418 bị cáo trong 7 tháng đầu năm 1991. Trong thời gian này ông đã tham gia 130 vụ mà bị cáo bị ép buộc là có tội và có ít nhất 1 vụ nghiêm trọng được xét xử trong nhiều ngày trong giai đoạn này. Trong suốt quá trình liên tục thực hiện những vụ việc ông không nhận được sự hỗ trợ điều tra nào vì 3 điều tra viên của văn phòng luật sư công phải phụ trách hơn 7.000 vụ việc mỗi năm. Không có ngân sách để trả thù lao cho người làm chứng. Tòa án tối cao Louisiana nhận thấy là do khối lượng công việc quá lớn và thiếu nguồn lực cần thiết nên khách hàng không được nhận sự giúp đỡ có hiệu quả của luật sư công như Hiến pháp quy định.
Trong một số vụ việc luật sư yêu cầu tăng kinh phí thì luật sư đã mất việc. Trong những vụ việc khác, các văn phòng khác đã chấm dứt hoạt động hoặc không có các hợp đồng mới. Các quyết định về ngân sách liên tục đe dọa hiệu quả hoạt động của luật sư. Một số bang chính quyền chấp nhận những hợp đồng với giá thấp mà bỏ qua yêu cầu của Hiến pháp về chất lượng bào chữa của luật sư.
Thật đáng trách là những luật sư có sự độc lập để có thể tìm kiếm các nguồn lực họ cần và đại diện, bào chữa cho khách hàng mà họ cho là thích hợp. Bộ tiêu chuẩn của Đoàn Luật sư, chương II liên quan đến Tòa án (3d, 1992) đã quy định về ngân sách phù hợp. Tiêu chuẩn 2.22 quy định: “luật sư giúp đỡ cho một người thuộc đối tượng trợ giúp có quyền được cấp kinh phí thông qua kế hoạch được lập trước để thực hiện trợ giúp có chất lượng và độc lập, được trả thù lao và cung cấp những dịch vụ cần thiết để thực hiện nhiệm vụ của mình”. Chú thích của tiêu chuẩn này bổ sung: “chất lượng của dịch vụ bào chữa phụ thuộc rất nhiều vào mức kinh phí được cấp. Cơ quan tư pháp nên khuyến khích cơ quan lập pháp trao quyền, nhân lực và kinh phí”.
Gần đây Tạp chí Quán quân của Hội Luật sư hình sự đã đăng một số bài báo về sự khủng hoảng kinh phí dành cho dịch vụ bào chữa công. Terence F.Maccthary đã nói về những nỗ lực có hiệu quả của bà trong việc có được sự ủng hộ của Đoàn Luật sư Mỹ để tăng kinh phí cho luật sư chỉ định tại Tòa án liên bang. Bà bàn về ý kiến của giới nhà văn về mức thù lao quá thấp cho luật sư chỉ định. Tiến sỹ Richard Klein trích dẫn nhiều nghiên cứu chỉ ra nguy cơ của việc trả thù lao thấp cho luật sư chỉ định. Klein cho rằng rất khó có thể thu hút luật sư giỏi khi mà mức thù lao không đủ chi trả cho mức sống tối thiểu của họ. Tòa án tối cao bang Florida nhận định: “mối quan hệ giữa thù lao của luật sư và chất lượng đại diện, bào chữa của luật sư là vấn đề đáng lưu tâm”.
Chương trình luật sư công với ngân sách hạn chế có thể đẩy mạnh sự phân biệt chủng tộc trong hệ thống tư pháp. “Nếu hệ thống tư pháp hình sự tước quyền hưởng phiên tòa công bằng của người nghèo, gánh nặng sẽ đè lên cộng đồng các màu da vì sự đói nghèo của cộng đồng và do đó họ phụ thuộc nhiều vào dịch vụ bào chữa công”.

Xem thêm »