QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ - TỪ GÓC ĐỘ LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI

30/12/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một chính sách xã hội đặc thù, thể hiện sâu sắc bản chất nhân văn của Nhà nước pháp quyền, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đặc biệt là quyền tiếp cận công lý của các nhóm yếu thế. Vì vậy, TGPL luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm bảo đảm thực hiện. Gần ba thập kỷ hình thành và phát triển cho thấy, hiệu quả hoạt động TGPL phụ thuộc rất lớn vào chất lượng quản lý nhà nước. Trong bối cảnh cải cách tư pháp, tinh gọn bộ máy, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế, việc nghiên cứu quản lý nhà nước về TGPL từ góc độ lý luận có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm rõ cơ sở khoa học, hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tổ chức và phương thức quản lý, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động TGPL trong kỷ nguyên mới.

1. Khái niệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý

Quản lý nhà nước là một hoạt động đặc thù của Nhà nước, gắn với chức năng quản lý xã hội, được thực hiện bằng quyền lực nhà nước, trên cơ sở pháp luật nhằm tổ chức, điều hành xã hội hướng tới những mục tiêu do Nhà nước đặt ra. Hoạt động này mang các đặc trưng cơ bản là: tính quyền lực – pháp lý, tính tổ chức, tính chấp hành – điều hành và tính định hướng. Theo Đại từ điển tiếng Việt, quản lý là “tổ chức, điều khiển hoạt động của một số cơ quan, đơn vị”.[1] Đây là một cách giải thích khá rộng. Ở phương diện nhà nước, quản lý nhà nước gắn liền với các chức năng của nhà nước; trong đó bao gồm chức năng quản lý xã hội. Theo cách tiếp cận này, quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành được đặc trưng bởi các yếu tố có tính tổ chức; được thực hiện trên cơ sở và để thi hành pháp luật; được bảo đảm thực hiện chủ yếu bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước (hoặc một số tổ chức xã hội trong trường hợp được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước).[2] Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động chỉ đạo, điều hành mang tính quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước, tổ chức có thẩm quyền, nhằm tổ chức và điều chỉnh các hoạt động xã hội và hành vi của công dân, hướng tới các mục tiêu nhất định do nhà nước đặt ra.

Trong lĩnh vực TGPL, khác với một số quốc gia trên thế giới có thu phí hoặc giảm phí, ở Việt Nam, TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí (tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng) cho người được TGPL theo quy định của Luật TGPL, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.[3] Như vậy, bản chất của TGPL là dịch vụ công thiết yếu do Nhà nước (cụ thể là các Trung tâm TGPL Nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL) cung cấp miễn phí cho những nhóm đối tượng nhất định (người nghèo, người có công với cách mạng và những nhóm người yếu thế khác trong xã hội). Do đó, quản lý nhà nước về TGPL có thể hiểu là hệ thống các biện pháp, chính sách và hoạt động do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện nhằm bảo đảm quyền được TGPL, quyền tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật của nhóm người thuộc diện chính sách xã hội. Chính vì thế, ngay từ khi ra đời[4] cho đến nay, TGPL đã thể hiện bản chất là một chính sách xã hội đậm nét nhân văn có sự quản lý thống nhất của nhà nước. Quản lý nhà nước về TGPL không chỉ bao gồm việc xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật, mà còn đòi hỏi sự kiểm tra, giám sát, hướng dẫn, tổ chức thực hiện và huy động các nguồn lực để đảm bảo triển khai hiệu quả cloong tác TGPL.

2. Vai trò của quản lý nhà nước trong TGPL
 
Là một bộ phận của hệ thống quản lý nhà nước về pháp luật và tư pháp, quản lý nhà nước về TGPL đóng vai trò trung tâm trong việc hình thành và định hướng phát triển hệ thống TGPL. Trước hết, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về TGPL, tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất cho hoạt động TGPL trên phạm vi cả nước, bảo đảm quyền được TGPL miễn phí của người dân. Năm 1997, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp để “giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý Nhà nước về TGPL miễn phí cho người nghèo và các đối tượng chính sách”.[5] Từ đó đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, VBQPPL điều chỉnh về TGPL.[6] Luật TGPL năm 2006 và hiện nay là Luật TGPL năm 2017 đều khẳng định: “TGPL là trách nhiệm của Nhà nước”.[7] Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được TGPL phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội; đồng thời, thu hút các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện, đóng góp, hỗ trợ hoạt động TGPL.

Như vậy, vai trò quản lý của nhà nước trong TGPL thể hiện trước hết ở việc nhà nước ban hành các chính sách, VBQPPL tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động TGPL. Nhà nước làm “nòng cốt” trong việc đảm bảo thực thi chính sách, pháp luật về TGPL thống nhất trên phạm vi toàn quốc; bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là nhóm người nghèo, người yếu thế trong việc tiếp cận công lý, tiếp cận dịch vụ pháp lý miễn phí, góp phần bảo đảm công bằng, bình đẳng trước pháp luật.

Bên cạnh đó, nhà nước quản lý TGPL thông qua việc tổ chức thực hiện TGPL thống nhất, hiệu quả; kiểm soát chất lượng dịch vụ TGPL thông qua việc thiết lập các tiêu chuẩn người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL; đào tạo đội ngũ trợ giúp viên pháp lý; quy trình nghiệp vụ và cơ chế giám sát, đánh giá. Việc nhà nước thu hút, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia TGPL, huy động sự đóng góp của cộng đồng và thúc đẩy hợp tác quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả TGPL trong bối cảnh đẩy mạnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế cũng thể hiện rõ nét vai trò điều phối của quản lý nhà nước về TGPL.
 
3. Mô hình quản lý nhà nước về TGPL
 
Thực tiễn quốc tế cho thấy, có nhiều mô hình quản lý nhà nước về TGPL khác nhau, phản ánh sự đa dạng về hệ thống pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội và truyền thống pháp lý của mỗi quốc gia. Có thể tổng hợp 3 mô hình cơ bản sau: (i) Nhà nước trực tiếp quản lý và cung cấp dịch vụ; (ii) Nhà nước ủy thác các tổ chức xã hội, luật sư; và (iii) mô hình hỗn hợp.

Kiểu thứ nhất, mô hình nhà nước trực tiếp quản lý và cung cấp dịch vụ TGPL. Theo đó, nhà nước thành lập các cơ quan, tổ chức của Nhà nước để trực tiếp quản lý đội ngũ thực hiện TGPL; dịch vụ TGPL có thể được cung cấp miễn phí hoặc giảm phí cho người thuộc diện được trợ giúp. Ưu điểm của mô hình này là đảm bảo tính thống nhất, ổn định về nguồn lực và Nhà nước dễ dàng kiểm soát dịch vụ. Tuy nhiên, điểm hạn chế là tính kém linh hoạt, bộ máy hành chính nhà nước có quy mô lớn, chi phí hành chính nhiều nhưng đôi khi vẫn không đáp ứng kịp thời nhu cầu đa dạng của người dân.

Kiểu thứ hai, mô hình nhà nước ủy thác hoặc hợp tác với các tổ chức xã hội. Nhà nước cấp ngân sách và thực hiện giám sát; việc cung cấp dịch vụ do các tổ chức độc lập hoặc các văn phòng luật sư tư nhân thực hiện thông qua việc ký kết hợp đồng hoặc cơ chế thanh toán theo vụ việc. Ưu điểm của mô hình này là tận dụng được các nguồn lực xã hội, tăng tính linh hoạt và chuyên môn hóa của dịch vụ. Tuy nhiên, việc đảm bảo tính chủ động điều phối của Nhà nước và tính đồng đều của dịch vụ có thể gặp khó khăn, đòi hỏi phải có cơ chế điều phối, giám sát chặt chẽ.

Kiểu thứ ba, mô hình hỗn hợp, kết hợp đồng thời cả hai phương thức trên. Nhà nước vừa duy trì các tổ chức TGPL của nhà nước, vừa hợp tác với các tổ chức xã hội và luật sư tư để mở rộng phạm vi và đa dạng hóa các loại hình dịch vụ pháp lý. Đây là mô hình phổ biến ở nhiều quốc gia và đang được áp dụng ở Việt Nam, cho phép phát huy ưu điểm và giảm thiểu nhược điểm của hai mô hình nói trên.

 
4. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước về TGPL
 
4.1. Chủ thể thực hiện quản lý nhà nước về TGPL: bao gồm các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở trung ương và địa phương.

Ở trung ương: Chính phủ chịu trách nhiệm thống nhất quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi cả nước;[8] Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về TGPL.[9]

Ở địa phương: UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi địa phương.[10] Sở Tư pháp là đơn vị chuyên môn của UBND cấp tỉnh, giúp UBND thực hiện quản lý nhà nước về TGPL ở địa phương.
 
Các Bộ, ngành, cơ quan tư pháp và tổ chức nghề nghiệp như các đoàn luật sư, hội luật gia…, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về TGPL để tham gia vào việc quản lý và tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về TGPL trong quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của tổ chức tư vấn pháp luật, tư vấn viên pháp luật theo quy định của pháp luật.[11]

4.2. Đối tượng quản lý:

-  Các tổ chức thực hiện TGPL: bao gồm các Trung tâm TGPL nhà nước, tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL và tổ chức tham gia TGPL. Tại thời điểm tháng 12/2025, cả nước có 53 Trung tâm TGPL nhà nước ở 34 tỉnh, thành phố và 70 chi nhánh của Trung tâm; 177 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 20 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp.

- Người thực hiện TGPL: gồm Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư thực hiện TGPL và cộng tác viên thực hiện trợ giúp pháp lý. Tính đến cuối năm 2024, cả nước có 712 trợ giúp viên pháp lý; 706 luật sư và 22 cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL nhà nước.

- Người được TGPL: theo quy định của Luật TGPL năm 2017 thì có các nhóm người được TGPL, bao gồm: người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;  người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; nhóm người có khó khăn về tài chính như: người cao tuổi, người khuyết tật, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân bị mua bán, người nhiễm HIV... Tuy nhiên, kể từ ngày 01/7/2025 thì nhóm người thuộc diện được TGPL sẽ tăng lên theo quy định của Luật Phòng chống mua bán người năm 2024, bao gồm: nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Tiếp đó, kể từ ngày 01/01/2026, người chưa thành niên cũng thuộc diện được TGPL theo quy định của Luật Tư pháp người chưa thành niên. Như vậy, diện người được TGPL liên tục được mở rộng trong thời gian qua.

- Hoạt động TGPL: bao gồm hoạt động tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng; thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL; đánh giá hiệu quả vụ việc để xác định vụ việc thành công; kiến nghị trong TGPL; công tác truyền thông, đào tạo, bồi dưỡng; công tác cán bộ, thống kê, hợp tác quốc tế…

5. Nội dung quản lý nhà nước về TGPL

Nội dung quản lý nhà nước về TGPL có phạm vi khá rộng nhằm đảm bảo hệ thống TGPL hoạt động hiệu quả. Trong đó, nội dung quan trọng đầu tiên là ban hành các chủ trương, chính sách, chiến lược, VBQPPL, kế hoạch phát triển…, tạo cơ sở pháp lý định hướng, điều chỉnh hoạt động TGPL trong từng thời kỳ; đồng thời tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, chiến lược, văn bản này một cách nhất quán và hiệu quả. Hiện tại, đang có 23 VBQPPL về TGPL (gồm Luật TGPL năm 2017, Nghị định 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 hướng dẫn một số điều của Luật TGPL; 01 quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 20 thông tư, thông tư liên tịch). Bên cạnh đó còn có Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015-2025;[12] Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030;[13] các chương trình mục tiêu quốc gia có nội dung về TGPL[14]
Quản lý chuyên môn, nghiệp vụ TGPL được chú trọng thông qua việc ban hành các quy định về tiêu chuẩn, chất lượng dịch vụ, quy trình thực hiện trợ giúp pháp lý[15], đạo đức nghề nghiệp của người thực hiện đảm bảo tính chuyên nghiệp, liêm chính và chất lượng[16].

Quản lý hệ thống các tổ chức thực hiện TGPL theo hướng Nhà nước trực tiếp quản lý các Trung tâm TGPL nhà nước; khuyến khích, thu hút hỗ trợ các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL thông qua cơ chế ký hợp đồng thực hiện TGPL hoặc đăng ký tham gia TGPL[17]. Xây dựng và quản lý đội ngũ người thực hiện TGPL cũng là một nội dung quan trọng trong quản lý nhà nước về TGPL. Do đó, cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, đảm bảo có đủ nguồn nhân lực chất lượng cao. Cùng với đó, quản lý và bảo đảm nguồn lực tài chính và cơ sở vật chất phù hợp cho TGPL, thông qua việc cấp ngân sách nhà nước và thu hút các nguồn lực xã hội cũng là yếu tố then chốt để hoạt động TGPL được triển khai một cách bền vững.[18]

Để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong quản lý nhà nước cần ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số, đổi mới chế độ báo cáo, thống kê; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm. Ngoài ra, hợp tác quốc tế để trao đổi kinh nghiệm, học hỏi các mô hình tiên tiến, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống TGPL Việt Nam.[19] Tất cả các nội dung quản lý này đều hướng đến mục tiêu chung là xây dựng hệ thống TGPL chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả; bảo đảm quyền được TGPL của người dân, đặc biệt là nhóm yếu thế, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh.

6. Một số nguyên tắc trong quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý

Luật TGPL và các VBQPPL không quy định cụ thể các nguyên tắc quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Tuy vậy, dựa trên các quy định hiện hành có thể rút ra một số nguyên tắc cơ bản sau:

Nguyên tắc tuân tuân thủ pháp luật: nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động quản lý nhà nước về TGPL phải được thực hiện theo quy định của hiến pháp và pháp luật, đảm bảo tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm.

Nguyên tắc trách nhiệm xã hội: Luật TGPL quy định TGPL là trách nhiệm của nhà nước. Quy định này thể hiện sự cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, các đối tượng chính sách; góp phần đảm bảo cho họ được tiếp cận và sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước.

Nguyên tắc lấy người được TGPL làm trung tâm. Đây là một trong những nguyên tắc quan trọng, xuyên suốt trong hoạt động TGPL. Nguyên tắc này đòi hỏi mọi chính sách, quy định và hoạt động TGPL đều phải hướng đến việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất cho người được trợ giúp, đặt nhu cầu và quyền lợi của người dân lên trước.

Nguyên tắc chuyên nghiệp và chất lượng: Nhà nước đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong TGPL thông qua việc ban hành các quy định về tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người thực hiện trợ giúp pháp lý; tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL; có cơ chế giám sát, đánh giá chất lượng dịch vụ. Mục tiêu là đảm bảo người dân được TGPL miễn phí với chất lượng tốt.

Nguyên tắc phối hợp và hợp tác: tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương và các tổ chức có liên quan trong việc quản lý và thực hiện TGPL. Bao gồm: phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về TGPL ở trung ương và địa phương (Bộ Tư pháp, UBND cấp tỉnh) với các cơ quan khác (Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án, Viện kiểm sát); các trung tâm TGPL nhà nước, các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật và các tổ chức  xã hội... Sự hợp tác này nhằm tối ưu hóa nguồn lực, nâng cao hiệu quả hoạt động và đảm bảo tính đồng bộ trong triển khai TGPL trên cả nước.

Nguyên tắc thu hút sự tham gia của xã hội: Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, cộng đồng và người dân tham gia vào hoạt động TGPL. Ban hành văn bản QPPL quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ các tổ chức xã hội, luật sư, tư vấn viên pháp luật tham gia TGPL theo hình thức ký hợp đồng, đăng ký tham gia TGPL. Sự tham gia của xã hội góp phần đa dạng, phong phú hoạt động TGPL và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.

Nguyên tắc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước về TGPL đặt ra yêu cầu công khai các thông tin liên quan đến hoạt động TGPL, bao gồm chính sách, quy trình nghiệp vụ, danh sách tổ chức thực hiện và người thực hiện, kết quả và chất lượng hoạt động. Nguyên tắc này đòi hỏi đảm bảo tính minh bạch trong quá trình quản lý, từ việc phân bổ nguồn lực, lựa chọn tổ chức ký hợp đồng, đăng ký tham gia TGPL, đến việc giao chỉ tiêu vụ việc TGPL, giám sát và đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL.

Nguyên tắc hiệu quả và hiệu lực trong quản lý nhà nước về TGPL đòi hỏi việc sử dụng các nguồn lực nhà nước một cách hợp lý và hiệu quả, bao gồm ngân sách, nhân lực và cơ sở vật chất, để đạt được một cách tối ưu các mục tiêu đề ra. Điều này không chỉ dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người được trợ giúp mà còn hướng đến việc tạo ra những tác động tích cực đến đời sống xã hội, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật, bảo vệ quyền con người và thúc đẩy xã hội công bằng, văn minh. Nguyên tắc này đảm bảo rằng nguồn lực đầu tư vào TGPL mang lại giá trị, giải quyết được các vấn đề pháp lý của người dân và đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

7. Công cụ và phương pháp quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý:

Công cụ quản lý nhà nước về TGPL là tập hợp các phương tiện và biện pháp mà Nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng quản lý của mình trong lĩnh vực này. Bao gồm:

- Công cụ pháp lý: ban hành các văn bản pháp luật và chính sách mang tính hệ thống về trợ giúp pháp lý, tạo khung pháp lý và định hướng cho hoạt động; xây dựng chương trình, đề án, kế hoạch…, giúp xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phân bổ nguồn lực một cách phù hợp.

- Các biện pháp hành chính như thành lập và quản lý các trung tâm trợ giúp pháp lý, ký hợp đồng hoặc cấp giấy đăng ký cho các tổ chức tham gia TGPL; xây dựng đội ngũ người thực hiện TGPL chuyên nghiệp, chất lượng với vai trò nòng cốt là Trợ giúp viên pháp lý.

- Công cụ tài chính được thực hiện thông qua việc bố trí và phân bổ ngân sách, đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị và các nguồn lực cho công tác TGPL.

- Công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá giúp theo dõi chất lượng, hiệu quả TGPL, kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm, đồng thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

Tất cả các công cụ này nhằm đảm bảo hoạt động TGPL được thực hiện hiệu quả, đúng pháp luật, phục vụ tốt nhất cho người dân.

Phương pháp quản lý nhà nước về TGPL được triển khai thông qua viêc chỉ đạo điều hành hệ thống đa tầng, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức với nhau. Chính phủ đóng vai trò trung tâm trong việc ban hành các chiến lược, chính sách, VBQPPL điều chỉnh hoạt động TGPL thống nhất trong phạm vi vả nước. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản lý nhà nước về lĩnh vực này. Ở địa phương, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước về TGPL trong phạm vi địa phương, chỉ đạo Sở Tư pháp và các cơ quan liên quan thực hiện công tác trợ giúp pháp lý. Các cơ quan quản lý nhà nước về TGPL, các Trung tâm TGPL nhà nước có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan khác (đặc biệt là cơ quan tiến hành tố tụng), các tổ chức xã hội, luật sư và các cá nhân, tổ chức trong hoạt động trợ giúp pháp lý, góp phần đa dạng hóa nguồn lực và nâng cao hiệu quả của công tác này. Việc ứng dụng công nghệ thông tin cũng ngày càng được chú trọng trong quá trình quản lý, điều phối và giám sát hoạt động trợ giúp pháp lý, hướng tới một hệ thống TGPL chuyên nghiệp, hiệu quả và thuận tiện cho người dân.

8. Một số thách thức trong quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý

- Về nhận thức: vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức và người dân chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của TGPL và công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này. Khi vai trò của TGPL chưa được đánh giá đúng mức, nguồn lực đầu tư có thể không được ưu tiên đầy đủ, sự phối hợp giữa các bên liên quan có thể thiếu chặt chẽ dẫn đến công tác quản lý nhà nước có thể chưa hiệu quả và quyết liệt. Thiếu hiểu biết có thể dẫn đến sự thờ ơ, xem nhẹ, không phối hợp kịp thời; người dân không biết và không sử dụng dịch vụ ngay cả khi có nhu cầu. Điều này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả và sự phát triển bền vững của hệ thống TGPL.

- Về thể chế: các văn bản về TGPL được ban hành nhiều nhưng một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, không đồng bộ, cần được nghiên cứu sửa đổi. Ví dụ, quy định về diện người được TGPL, về điều kiện “có khó khăn về tài chính”; về việc thành lập chi nhánh của Trung tâm; về cấp thẻ trợ giúp viên và cộng tác viên TGPL, về việc đánh giá chất lượng vụ việc TGPL…

- Việc triển khai các văn bản về TGPL: trên thực tế vẫn còn có lúc, có nơi chưa đồng bộ, còn vướng mắc, lúng túng nhất là trong bối cảnh tinh gọn bộ máy, hợp nhất tỉnh và bỏ chính quyền cấp huyện. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đôi khi chưa thực sự chặt chẽ, kịp thời.

- Công tác truyền thông, nâng cao nhận thức về TGPL cho người dân, đặc biệt là các đối tượng yếu thế, còn chưa thực sự hiệu quả, khiến nhiều người dân chưa biết đầy đủ về quyền được TGPL hoặc gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ.

- Việc kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng, hiệu quả hoạt động và vụ việc TGPL ở một số địa phương còn mang tính hình thức, chưa thực chất.

- Nguồn lực cho TGPL vẫn còn hạn chế. Ngân sách nhà nước dành cho trợ giúp pháp lý, mặc dù đã có sự quan tâm, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế ngày càng cao. Số lượng Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên TGPL, đặc biệt là những người có trình độ chuyên môn cao và kinh nghiệm thực tế, còn mỏng. Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động TGPL ở nhiều địa phương chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu.

- Chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ người thực hiện TGPL chưa đồng đều, một số nơi chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Yêu cầu về kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của Trợ giúp viên pháp lý và luật sư, cộng tác viên TGPL ngày càng cao trong bối cảnh xã hội và các quan hệ pháp luật không ngừng thay đổi, các vụ việc pháp lý ngày càng phức tạp. Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ này chưa toàn diện, chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn sâu, kỹ năng nghề nghiệp (đặc biệt là kỹ năng mềm) và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong TGPL.

- Khả năng tiếp cận TGPL của người dân còn hạn chế, đặc biệt là nhóm yếu thế ở vùng vùng sâu, vùng xa, giao thông khó khăn. Rào cản về địa lý, về kinh tế, về ngôn ngữ, về phong tục tập quán; sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết về pháp luật, về quyền được TGPL và các kênh cung cấp dịch vụ; điều kiện tiếp cận và khả năng cung cấp dịch vụ… cũng là những trở ngại lớn hiện nay.
 
9. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý

Trên cơ sở các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN như Nghị quyết 27-NQ/TW[20], Nghị quyết số 66-NQ/TW của Bộ chính trị,[21] một số giải pháp trọng tâm được đề xuất cụ thể như sau:

9.1. Hoàn thiện mô hình quản lý nhà nước về TGPL  

Trong kỷ nguyên mới, với chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu ngày càng cao về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mô hình kết hợp công - tư trong TGPL ở Việt Nam vẫn được đánh giá là phù hợp nhất. Nhà nước tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm TGPL, vừa đẩy mạnh thu hút sự tham gia của các tổ chức xã hội, luật sư, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên TGPL nhằm đa dạng hóa nguồn cung cấp dịch vụ.

Tuy vậy, trong xu thế tinh gọn bộ máy, thực hiện sáp nhập tỉnh, sáp nhập xã và bỏ cấp huyện, việc đổi mới mô hình và phương thức quản lý nhà nước về TGPL trong thời gian tới cần tập trung vào tính linh hoạt, hiệu quả và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ. Mô hình quản lý có thể chuyển dịch theo hướng tăng cường vai trò chiến lược và điều phối ở trung ương; đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền, tạo chủ động trong quản lý ở cấp tỉnh; phát huy tối đa vai trò của UBND cấp xã ở tuyến cơ sở; sử dụng công nghệ mới, nền tảng số để quản lý hồ sơ, kết nối người có nhu cầu với người cung cấp dịch vụ và giám sát chất lượng trên phạm vi rộng.

Phương thức quản lý cần chuyển từ hành chính trực tiếp sang quản lý dựa trên dữ liệu và hiệu suất, khuyến khích sự tham gia đa dạng của các tổ chức xã hội và cá nhân thông qua cơ chế hợp tác linh hoạt, tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá dựa trên kết quả thực tế, đảm bảo người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ chất lượng dù có sự thay đổi về đơn vị hành chính. Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch vụ phải được coi là yếu tố then chốt trong thời gian tới.

9.2. Hoàn thiện pháp luật về TGPL
 
Hoàn thiện pháp luật về TGPL là yêu cầu quan trọng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về TGPL. Điều này đòi hỏi cần khẩn trương rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các VBQPPL một cách đồng bộ, thống nhất, từ Luật TGPL năm 2017, Nghị định 144/2017/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn phù hợp với các chủ trương, định hướng của Đảng, nhà nước: nghiên cứu mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hệ thống dịch vụ TGPL thông qua việc xây dựng mạng lưới thực hiện TGPL đa dạng ở cơ sở, phát huy tối đa vai trò của các tổ chức xã hội và cá nhân; ưu tiên nguồn lực TGPL; nâng cao năng lực của các tổ chức thực hiện TGPL; nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số, chuyển đổi số trong hệ thống trợ giúp pháp lý; nghiên cứu cơ chế sử dụng đội ngũ người thực hiện TGPL, đặc biệt là trợ giúp viên pháp lý, là một trong những lực lượng nòng cốt của đội ngũ luật sư công trong thời gian tới.   

Mục tiêu là khắc phục những chồng chéo, mâu thuẫn, hoặc khoảng trống pháp lý; quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể quản lý và thực hiện TGPL ở các cấp; đồng thời tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch và thống nhất, thúc đẩy hoạt động TGPL phát triển bền vững và hiệu quả trên phạm vi cả nước.

9.3. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý TGPL và người thực hiện TGPL  

Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý TGPL và người thực hiện TGPL là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả và chất lượng trợ giúp pháp lý. Trước hết, đối với người làm công tác quản lý trợ giúp pháp lý, cần bảo đảm đáp ứng yêu cầu về số lượng và nâng cao chất lượng thông qua việc thiết lập cơ chế, quy định tiêu chuẩn tuyển dụng, bố trí, đánh giá cán bộ và chế độ đãi ngộ hợp lý; chú trọng đào tạo chuyên sâu về kiến thức pháp luật, kỹ năng quản lý, điều phối, giám sát và đánh giá hoạt động trợ giúp pháp lý, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý;

Đối với người thực hiện TGPL, bảo đảm đủ về số lượng và nâng cao chất lượng, đặc biệt là đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý. Muốn vậy, cần rà soát lại các tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Trợ giúp viên pháp lý, cộng các viên TGPL; điều kiện, quy trình, thủ tục lựa chọn và ký hợp đồng TGPL với các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật, việc đăng ký tham gia TGPL… Có cơ chế thu hút nhân lực chất lượng cao tham gia vào TGPL. Đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu không chỉ kiến thức pháp luật mà còn tập trung vào kỹ năng tư vấn, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, các kỹ năng mềm khác như kỹ năng phối hợp, thông tin, kỹ năng giao tiếp, làm việc với các đối tượng đặc thù…

9.4. Thiết lập cơ chế giám sát và đánh giá độc lập về quản lý TGPL

Để đảm bảo tính khách quan và nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác trợ giúp pháp lý, việc thiết lập một cơ chế giám sát và đánh giá độc lập là yêu cầu cấp thiết. Cơ chế này cần có sự tham gia của các chuyên gia độc lập, đại diện các tổ chức thực hiện TGPL, các tổ chức xã hội có liên quan và thậm chí là ý kiến phản hồi của người dân và người được trợ giúp pháp lý. Chức năng chủ đạo của cơ chế này là định kỳ hoặc đột xuất đánh giá việc thực hiện chính sách, hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, đưa ra các khuyến nghị cải thiện dựa trên các tiêu chí khách quan và minh bạch. Sự độc lập của cơ chế giám sát và đánh giá góp phần phát hiện kịp thời những tồn tại, hạn chế, thúc đẩy trách nhiệm và nâng cao chất lượng quản lý nhà nước trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.

Bên cạnh đó, cần xây dựng bộ tiêu chí hoặc chỉ số đánh giá, giám sát toàn diện công tác TGPL, kể cả công tác quản lý TGPL và thực hiện TGPL. Bộ tiêu chí này đo lường mức độ bao phủ/cung cấp dịch vụ; khả năng tiếp cận TGPL của các nhóm đối tượng; chất lượng dịch vụ; hiệu quả sử dụng nguồn lực, kể cả việc phân bổ ngân sách, nhân lực và cơ sở vật chất; tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, trong đó có việc công khai thông tin và cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo; đánh giá tác động của TGPL trong việc bảo vệ quyền con người, nâng cao nhận thức pháp luật và việc thực hiện văn hóa tuân thủ pháp luật. Các chỉ số cụ thể cần được xây dựng cho từng tiêu chí, có khả năng định lượng và theo dõi theo thời gian, tạo cơ sở khách quan cho việc đánh giá, so sánh và đưa ra các khuyến nghị điều chỉnh chính sách, pháp luật và biện pháp quản lý kịp thời.
 
9.5. 
Tăng cường phối hợp liên ngành và hợp tác trong nước và quốc tế  
 
Để nâng cao hiệu quả và phạm vi tác động của công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, việc tăng cường phối hợp liên ngành giữa các bộ, ngành có liên quan (Tư pháp, Tài chính, Lao động - Thương binh - Xã hội, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát, các tổ chức chính trị - xã hôi - nghề nghiệp...), phối hợp liên cấp (giữa trung ương và địa phương, giữa cấp tỉnh và cấp xã)… rất quan trọng. Hiện nay, đã có nhiều văn bản quy định về sự phối hợp, ví dụ Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng[22], Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện TGPL trực tại Tòa án nhân[23]; Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an phối hợp trực TGPL trong điều tra hình sự;[24] Quy chế phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam về hoạt động TGPL của Luật sư;[25] Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam[26] … Tuy vậy, vấn đề thực thi các cơ chế phối hợp này cần được quan tâm thực hiện một cách hiệu quả trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và thống nhất trong xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật TGPL, tối ưu hóa các nguồn lực và giải quyết các vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực một cách kịp thời, đúng quy định.

Bên cạnh đó, cần tiếp tục chủ động tham gia ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế, các diễn đàn quốc tế và các hoạt động hợp tác song phương, đa phương và khu vực về quyền con người, quyền công dân có liên quan đến TGPL, nhằm chia sẻ, học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, nguồn lực hỗ trợ quốc tế, góp phần nâng cao năng lực quản lý và chất lượng TGPL của Việt Nam trong thời gian tới.

9.6. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong TGPL

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý và cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, có chất lượng trong kỷ nguyên mới. Các nền tảng trực tuyến không chỉ cho phép người dân dễ dàng tìm kiếm thông tin, tiếp cận TGPL mà còn hỗ trợ cán bộ quản lý và người thực hiện TGPL tối ưu hóa quy trình quản lý TGPL; số hóa hồ sơ điện tử, lưu trữ, khai thác, chia sẻ dữ liệu và phối hợp, xử lý một cách nhanh chóng, hiệu quả. Công nghệ số giúp theo dõi và đánh giá hiệu quả hoạt động của các tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý, tăng cường khả năng kết nối, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan; giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, tăng tính minh bạch. Để thực hiện được nhiệm vụ này, đòi hỏi có sự đầu tư vào hạ tầng công nghệ, bố trí nhân lực có chuyên môn phù hợp, đào tạo kỹ năng số cho đội ngũ cán bộ quản lý và người thực hiện, xây dựng các quy trình nghiệp vụ số hóa, hướng tới một hệ thống TGPL hiện đại, chuyên nghiệp, minh bạch, bảo mật thông tin và dễ tiếp cận cho người dân, đặc biệt là những đối tượng yếu thế.
 
Tóm lại, quản lý nhà nước về TGPL là một quá trình, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ, liên tục giữa các cấp, ngành và sự tham gia của toàn xã hội. Việc hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và người thực hiện TGPL, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, cùng với việc nâng cao nhận thức của người dân về quyền được TGPL là những yếu tố then chốt để xây dựng một hệ thống TGPL hiệu quả, chất lượng, minh bạch và dễ tiếp cận, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đặc biệt là những đối tượng yếu thế trong xã hội, hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ, hiện đại, văn minh./.
 

[1] Nguyễn Như Ý, Đại từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản văn hóa-thông tin, năm 1998, trang 1368.
[2] Uông Chu Lưu, Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà nước, Tạp chí Dân chủ pháp luật - Số chuyên đề 60 năm ngành Tư pháp; https://moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/qt/cacchuyenmuc/70TuPhapVietNam/Lists/TuLieuNganh&ListId=000d6fc1-a9f5-4971-bde6-a7ddfad65450&SiteId=3f27e3bf-ad07-4b21-ab27-8845cd872ac9&ItemID=19&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3.
[3] Điều 2 Luật trợ giúp pháp lý năm 2017
[4] Quyết định số 734- TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách.
[5] Điều 1 Quyết định số 734 ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ
[6] Hiện nay có hơn 20 VBQPPL đang có hiệu lực pháp luật  về TGPL, bao gồm 01 Luật, 01 Nghị định, còn lại là các thông tư và thông tư liên tịch.
[7] Điều 6 Luật TGPL năm 2006; Điều 4 Luật TGPL 2017
[8] Khoản 1 Điều 40 Luật TGPL năm 2017.
[9] Khoản 2 Điều 40 Luật TGPL năm 2017
[10] Khoản 4 Điều 40 Luật TGPL năm 2017
[11] Điều 41, 43, 44 Luật TGPL năm 2017
[12] Ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ
[13] Ban hành kèm theo Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ
[14]  5 chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG): Xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; xóa đói giảm nghèo bền vững; phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2030; phòng chống ma túy đến năm 2030.
[15] Luật TGPL quy định nguyên tắc hoạt động, trách nhiệm bảo đảm chất lượng TGPL của nhà nước; quy định tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý; tổ chức thực hiện TGPL ; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ trưởng Bộ tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc TGPL quy định tiêu chí đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc TGPL; Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ tư pháp quy định về quản lý chất lương, hiệu quả vụ việc TGPL…
[16] Luật TGPL năm 2017, Thông tư số 03/2020/TT-BTP ngày 28/4/2020 ban hành quy tắc nghề nghiệp TGPL
[17] Luật TGPL năm 2017 quy định TGPL là trách nhiệm của Nhà nước (Điều 4), Trung tâm TGPL nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp; Nhà nước thu hút các nguồn lực thực hiện TGPL; hỗ trợ, khuyến khích, ghi nhận và tôn vinh các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho hoạt động TGPL (điều 4).
[18] Điều 4 Luật TGPL quy định:  Nguồn tài chính cho công tác TGPL bao gồm nguồn ngân sách nhà nước; đóng góp, tài trợ của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước và các nguồn hợp pháp khác.
[19] Điều 40 Luật TGPL
[20] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới.
[21] Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới
[22] Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính và Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng
[23] Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về người thực hiện TGPL trực tại Tòa án nhân
[24] Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA ngày 27/11/2023 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an phối hợp trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự
[25] Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 giữa Bộ Tư pháp và Liên đoàn luật sư Việt Nam về hoạt động TGPL của luật sư.
[26] Chương trình phối hợp thực hiện công tác giữa Bộ Tư pháp và Hội Luật gia Việt Nam số 2727/CTPH-BTP-HLGVN ngày 25/7/2018.

Xem thêm »