Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Thực trạng chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý, không thu tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào từ người được trợ giúp pháp lý (TGPL). TGPL có mục đích hướng dẫn người dân giải đáp những vướng mắc pháp luật, hướng dẫn cách giải quyết tình huống cụ thể mà người dân đang chưa biết cách giải quyết; tham gia trong các vụ việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người dân; đại diện cho người dân thực hiện các công việc trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; góp phần tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ TGPL của người dân.Với những đặc trưng trên, TGPL được coi là một loại dịch vụ pháp lý đặc biệt. Tại Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp đã xác định dịch vụ TGPL là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu. Theo đó, Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh, thành phố là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động xét xử. Người thực hiện TGPL là một bên của quá trình tranh tụng. Được xác định là một dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu đã phần nào khẳng định vai trò của hoạt động TGPL với tư cách là một loại hình dịch vụ pháp lý trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về định hướng phát triển, tại Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp, mỗi tỉnh, thành phố đều có 01 Trung tâm TGPL nhà nước để cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo Luật TGPL; các Trung tâm TGPL nhà nước được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Hiện nay, chưa có bộ tiêu chí hiệu quả hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước, chất lượng dịch vụ TGPL có thể được đánh giá thông qua việc đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL.
1. Khung pháp luật nhằm bảo đảm chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những mục tiêu quan trọng, xuyên suốt từ khi có Luật TGPL, đặc biệt là khi triển khai Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 cho đến khi xây dựng và thông qua Luật TGPL năm 2017. Để đạt được mục tiêu này, Luật TGPL năm 2017 đã có các quy định chuẩn hóa đội ngũ người thực hiện TGPL, đặt ra tiêu chuẩn đối với tổ chức tham gia TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL, cụ thể như sau:
1.1. Về người thực hiện TGPL
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật, người thực hiện TGPL bao gồm 04 nhóm chủ thể như sau:
- Trợ giúp viên pháp lý.
- Luật sư thực hiện TGPL theo hợp đồng với Trung tâm TGPL nhà nước và theo phân công của tổ chức tham gia TGPL.
- Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia TGPL.
- Cộng tác viên TGPL.
Với quan điểm phát triển công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp hóa, Luật đã nâng cao tiêu chuẩn trợ giúp viên pháp lý như luật sư, bổ sung tiêu chuẩn phải trải qua tập sự nghề tại khoản 3 Điều 19. Điều này là rất cần thiết để chuyên viên pháp lý có thời gian vận dụng kiến thức, giúp họ hoàn thiện những kỹ năng, đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng trước khi được bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý. Với tư cách là một dịch vụ pháp lý thì việc tập sự TGPL được thiết kế tương tự như tập sự luật sư. Đồng thời, Luật tiếp tục ghi nhận sự tham gia của đội ngũ luật sư, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm đang hoạt động có hiệu quả và chọn lọc những người có kiến thức pháp luật, kinh nghiệm thực tiễn và bảo đảm về mặt thời gian tham gia TGPL để làm cộng tác viên TGPL.
Quy định huy động những người thực hiện TGPL có trình độ, kinh nghiệm như vậy vừa thể hiện xu hướng đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ pháp lý, vừa có tính kế thừa Luật hiện hành, đặc biệt là bảo đảm nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL. Qua đó sẽ tạo sự tin tưởng từ người được TGPL và góp phần nâng cao vị trí, vai trò của công tác TGPL trong xã hội.
1.2. Về tổ chức tham gia TGPL
Luật huy động các tổ chức tham gia TGPL bao gồm tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật theo hai phương thức sau:
- Ký kết hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp thực hiện bằng nguồn kinh phí nhà nước;
- Đăng ký tham gia TGPL được thực hiện bằng nguồn lực của chính tổ chức đó.
Việc đa dạng hóa chủ thể cung cấp dịch vụ với các cơ chế này sẽ thu hút được các tổ chức có các điều kiện đáp ứng yêu cầu TGPL của người dân. Để nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL do các tổ chức này cung cấp, tại Điều 14 và Điều 15 Luật TGPL năm 2017 đã quy định việc tham gia thực hiện TGPL của các tổ chức phải tuân thủ các điều kiện tối thiểu và phù hợp với tính chất công việc TGPL. Đặc biệt, để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội trong thời gian qua, Luật đã bổ sung cơ chế ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất để cung cấp dịch vụ TGPL, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền của người được TGPL. Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và thông qua việc trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL sẽ khuyến khích hơn nữa sự tham gia TGPL có chất lượng của các tổ chức này.
Như vậy, theo Luật TGPL năm 2017, để được cung cấp dịch vụ TGPL, các tổ chức, cá nhân cần đáp ứng yêu cầu, điều kiện tối thiểu do Luật định để bảo đảm chất lượng dịch vụ họ cung cấp. Có thể nói, với những quy định chặt chẽ này, Nhà nước đã thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
1.3. Về quản lý chất lượng vụ việc TGPL
Một trong những bất cập của công tác quản lý đối với hoạt động TGPL là việc nắm bắt thông tin về tổ chức và các mặt hoạt động TGPL, đặc biệt là chất lượng TGPL chưa thật sự hiệu quả, chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Luật TGPL năm 2017 đặt ra yêu cầu đối với việc nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng vụ việc TGPL thông qua quy định hồ sơ điện tử của từng vụ việc TGPL được số hóa, cập nhật vào hệ thống quản lý vụ việc TGPL và lưu trữ tại cơ sở dữ liệu về TGPL (Điều 39); Luật giao Bộ Tư pháp có nhiệm vụ tổ chức việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL (khoản 2 Điều 42). Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tư pháp cần có kế hoạch xây dựng quy định về quy trình đánh giá, yêu cầu đối với người đánh giá một cách chặt chẽ. Nếu như nâng cao tiêu chuẩn đội ngũ người thực hiện TGPL và tổ chức thực hiện TGPL là khâu "đầu vào" thì việc tăng cường quản lý chất lượng vụ việc TGPL được coi là khâu "đầu ra" nhằm đánh giá toàn diện chất lượng của một dịch vụ.
1.4. Ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn cụ thể đánh giá chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Quản lý chất lượng vụ việc TGPL là một khâu quan trọng để nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL theo mục tiêu của Luật TGPL năm 2017 đề ra. Ngày 28/8/2018, Thông tư số 12/2018/TT-BTP hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL, được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 03/2021/TT-BTP, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quản lý chất lượng vụ việc TGPL như sau:
Thứ nhất, về hồ sơ vụ việc TGPL (Điều 11): Việc hướng dẫn hồ sơ vụ việc theo hướng bám sát quy định tại khoản 2 Điều 38 của Luật TGPL, bảo đảm quy định hồ sơ vụ việc TGPL là công cụ để phục vụ cho việc đánh giá chất lượng vụ việc TGPL và thống nhất ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, lưu trữ hồ sơ vụ việc để các địa phương tiết kiệm thời gian, tập trung thực hiện vụ việc, thuận lợi cho việc theo dõi, tra cứu. Tổ chức thực hiện TGPL, Chi nhánh có trách nhiệm tạo hồ sơ vụ việc và người thực hiện TGPL cập nhật lên phần mềm quản lý tổ chức và hoạt động TGPL. Theo đó, hồ sơ vụ việc tham gia tố tụng và hồ sơ đại diện ngoài tố tụng đều có phiếu lấy ý kiến người được TGPL hoặc người thân thích của họ.
Thứ hai, Thông tư quy định những nội dung về thẩm quyền thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, về tiêu chí và xếp loại đánh giá chất lượng vụ việc TGPL.
Các quy định này vừa khắc phục được những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện Thông tư số 02/2013/TT-BTP ngày 05/01/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, vừa tạo cơ chế chủ động cho cơ quan quản lý về TGPL trong việc quản lý và đánh giá chất lượng vụ việc TGPL. Qua đó nắm bắt được thực chất chất lượng vụ việc TGPL của các tổ chức thực hiện TGPL và đề ra biện pháp quản lý, điều hành phù hợp, bảo đảm người được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL có chất lượng tốt nhất.
Ngày 16/5/2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã phê duyệt Quyết định số 1179/QĐ-BTP ban hành Tiêu chí xác định vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công. Việc ban hành các tiêu chí nhằm giúp các tổ chức thực hiện TGPL có công cụ, cơ sở để xác định vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công do tổ chức mình thực hiện; giúp Cục TGPL, Sở Tư pháp thực hiện quản lý và tổ chức đánh giá hiệu quả vụ việc TGPL tham gia tố tụng trong phạm vi quản lý. Qua đó có giải pháp bảo đảm và nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL, vinh danh, khích lệ người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL có nhiều vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công. Đồng thời, với việc đưa ra các tiêu chí để xác định vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công cũng góp phần giúp xã hội, cơ quan, tổ chức và người dân nhìn nhận rõ hơn về tác dụng của hoạt động TGPL trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
Hiện nay, việc quản lý về TGPL được thực hiện theo hai cấp, Trung ương và địa phương. Ở Trung ương, Cục TGPL là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về TGPL. Ở địa phương, Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về TGPL tại địa phương. Trung tâm TGPL nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Từ năm 2016, hàng năm Bộ Tư pháp ban hành chỉ tiêu vụ việc tham gia tố tụng cho các trợ giúp viên pháp lý, theo đó, các trợ giúp viên pháp lý có trách nhiệm thực hiện một số lượng vụ việc tham gia tố tụng nhất định căn cứ vào thâm niên giữ chức danh nghề nghiệp. Hàng năm, chỉ tiêu được điều chỉnh tăng dần. Việc giao chỉ tiêu là một biện pháp giúp các Trung tâm triển khai nhiều biện pháp đồng bộ để tăng số vụ việc tham gia tố tụng[1]. Thông qua thực hiện vụ việc, trợ giúp viên pháp lý khẳng định được năng lực của mình cũng như góp phần ghi nhận vai trò, vị thế của hoạt động TGPL trong đời sống xã hội.
2. Thực trạng chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
2.1. Kết quả đạt được
Hiện có 63 Trung tâm TGPL nhà nước, 105 Chi nhánh TGPL cấp huyện, liên huyện với đội ngũ người thực hiện TGPL trong cả nước là 1.233 viên chức, người lao động, trong đó có 666 Trợ giúp viên pháp lý, 406 chuyên viên pháp lý, 64 kế toán và 97 đối tượng khác; có 40 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL[2]; 180 tổ chức đăng ký tham gia TGPL[3]; 663 Luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL.
Trong 04 năm triển khai Luật, tính đến hết năm 2021, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được 135.038 vụ việc TGPL[4], trong đó có 59.422 vụ việc tham gia tố tụng, chiếm 44%.
Chất lượng dịch vụ TGPL và hiệu quả hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước được thể hiện rõ nét ở chất lượng vụ việc TGPL, bởi chất lượng vụ việc TGPL được đánh giá trên cơ sở những tiêu chí về kết quả vụ việc, trách nhiệm nghề nghiệp của người thực hiện TGPL, về quá trình tổ chức thực hiện vụ việc TGPL, mức độ hài lòng của người được TGPL. Để có cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc TGPL được cung cấp, Bộ Tư pháp đã ban hành tiêu chí đánh giá làm cơ sở cho Cục TGPL ở Trung ương và các Sở Tư pháp ở địa phương là cơ quan quản lý nhà nước về TGPL có thể đánh giá, giám sát được chất lượng vụ việc TGPL, bảo đảm cho người được TGPL thụ hưởng dịch vụ TGPL chất lượng. Đồng thời, để có thể lượng hóa hiệu quả tranh tụng của người thực hiện TGPL, Cục TGPL, Bộ Tư pháp đã có nghiên cứu xây dựng các tiêu chí vụ việc tham gia tố tụng thành công cụ thể đối với các loại vụ việc trong lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính. Qua đó xác định được những vụ việc hiệu quả, đem lại lợi ích rõ rệt, cụ thể cho người được TGPL.
Từ ngày 01/01/2018 đến 31/12/2021, toàn quốc đã có 16.441 vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả (chiếm 27 % tổng vụ việc TGPL tham gia tố tụng).[5] Qua số liệu thống kê, có thể thấy, số vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công, hiệu quả ngày càng tăng, chất lượng dịch vụ TGPL đã có nhiều cải thiện rõ rệt. Nhiều vụ việc tham gia tố tụng do người thực hiện TGPL thực hiện đạt hiệu quả, có nhiều vụ án được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân, thậm chí có những vụ việc được tuyên trắng án, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL.
Kết quả trên cho thấy chất lượng dịch vụ TGPL và hiệu quả hoạt động của các Trung tâm TGPL nhà nước ngày càng được nâng cao, thực sự là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Thông qua các vụ việc TGPL cho thấy đội ngũ người thực hiện TGPL nói chung và trợ giúp viên pháp lý nói riêng ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc giúp người yếu thế tiếp cập công lý, góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo và một số nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
Đánh giá về chất lượng tham gia tố tụng của trợ giúp viên pháp lý, các cơ quan tiến hành tố tụng cho biết họ đánh giá cao tinh thần, trách nhiệm làm việc của trợ giúp viên pháp lý. Ngay sau khi nhận được thông tin về người bị buộc tội, bị hại, đương sự do các cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến, trợ giúp viên pháp lý kịp thời liên hệ xác minh thông tin và thực hiện các thủ tục TGPL cho người thuộc diện TGPL. Trong quá trình tham gia tố tụng, trợ giúp viên pháp lý nghiên cứu hồ sơ vụ án, gặp gỡ, tiếp xúc với người được TGPL, tham gia bào chữa, bảo vệ tại tòa án thể hiện trình độ chuyên môn sâu và có bản lĩnh nghề nghiệp.
2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
2.2.1. Một số hạn chế
Thứ nhất, số lượng vụ việc TGPL do cơ quan quản lý TGPL đánh giá chưa được nhiều, công tác quản lý chất lượng, kiểm tra, thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được triển khai thường xuyên…
Thứ hai, việc đánh giá chất lượng vụ việc TGPL còn thực hiện chưa nhiều, cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định chất lượng, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL chưa có nhiều kinh nghiệm trong công việc này; chưa hình thành đội ngũ chuyên gia hỗ trợ cơ quan quản lý TGPL đánh giá chất lượng vụ việc.
Thứ ba, một số Trung tâm chưa được quan tâm bố trí nhân lực tương quan với nhiệm được giao. Mặc dù số lượng trợ giúp viên pháp lý tăng hàng năm nhưng so với nhu cầu về TGPL của người dân thì số lượng trợ giúp viên pháp lý như hiện nay (666 người) vẫn còn ít, điều này gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động thực hiện vụ việc TGPL ở những nơi đông dân cư, địa bàn đi lại khó khăn. Một số trợ giúp viên pháp lý được điều chuyển vị trí công tác, luật sư là lực lượng có khả năng tham gia hoạt động TGPL nhưng lại tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn.
Thứ tư, hoạt động tăng cường năng lực cho người thực hiện TGPL, đặc biệt tại địa phương còn hạn chế, chưa được tổ chức thường xuyên.
Thứ năm, việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào hoạt động TGPL mới ở bước đầu, chưa tạo nhiều thuận lợi cho người dân; hạ tầng công nghệ thông tin của Cục TGPL - Bộ Tư pháp và các Trung tâm TGPL nhà nước trong toàn quốc được đầu tư qua nhiều thời kỳ, cách thức triển khai khác nhau nên thiếu sự đồng bộ.
Thứ sáu, công tác truyền thông về TGPL còn chưa đến được với nhiều người dân; người dân còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận với dịch vụ TGPL.
2.2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, kinh phí dành cho hoạt động TGPL còn chưa bảo đảm. Nhiều Trung tâm TGPL nhà nước chưa được bố trí trụ sở thuận tiện với người dân, chưa có xe ô tô, chưa có trụ sở riêng hoặc có trụ sở riêng nhưng chật chội, không đủ phòng làm việc, phương tiện làm việc, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế. Một số tỉnh ngân sách còn hạn chế nên việc bố trí kinh phí cho hoạt động TGPL chưa bảo đảm để Trung tâm TGPL triển khai toàn diện các mặt công tác (tập huấn về công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người thực hiện TGPL, chưa có điều kiện mở các lớp tập huấn chuyên sâu, chi trả thù lao, bồi dưỡng thực hiện vụ viêc TGPL,...).
Thứ hai, quy định về thẩm quyền, tiêu chí đánh giá chất lượng vụ việc TGPL có sự thay đổi, tiêu chí vụ việc TGPL tố tụng thành công, hiệu quả đã được nghiên cứu để áp dụng, đây là hướng dẫn mới nên công tác đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc chưa triển khai được thường xuyên, cần có thời gian để tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện.
3. Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, cơ quan quản lý nhà nước về TGPL tăng cường đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, đánh giá hiệu quả vụ việc TGPL để xác định những vụ việc thành công, xác định những người thực hiện TGPL có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao cũng như nhiều kinh nghiệm có thể giải quyết thành công các vụ việc phức tạp,... Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước về TGPL có những giải pháp truyền thông về những vụ việc TGPL thành công nhằm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ TGPL, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL cũng như tôn vinh các tổ chức, cá nhân tham gia, đóng góp cho công tác TGPL.
Thứ hai, cơ quan lý nhà nước về TGPL quan tâm bố trí nguồn lực phù hợp cho việc nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL. Bên cạnh các kiến thức cơ bản đào tạo nghề, để có thể cung cấp dịch vụ TGPL có chất lượng người thực hiện TGPL cần được trang bị nhiều kỹ năng nghề nghiệp, chuyên sâu (kỹ năng tư vấn pháp luật, kỹ năng tham gia tố tụng trong từng lĩnh vực pháp luật, kỹ năng đại diện ngoài tố tụng....). Đa dạng hóa các phương thức tăng cường năng lực: tập huấn theo chuyên đề, hội thảo hoặc các hình thức chia sẻ kinh nghiệm. Sở Tư pháp, Trung tâm TGPL nhà nước cần tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác TGPL để tạo nguồn bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý cho Trung tâm; quan tâm cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để triển khai thực hiện điểm cầu thành phần Trung tâm TGPL tham gia phiên toà trực tuyến, chuyển đổi số trong TGPL có hiệu quả.
Thứ ba, ngày 08/12/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2070/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, theo đó Trung tâm TGPL là đơn vị cung cấp dịch vụ thiết yếu không thuộc trường hợp áp dụng thực hiện giảm 10% số lượng người làm việc tại đơn vị sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Do đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ưu tiên bố trí, sắp xếp số lượng người làm việc cho Trung tâm TGPL nhà nước trên cơ sở số dôi dư từ các đơn vị sự nghiệp chuyển sang tự chủ, sáp nhập, giải thể, bảo đảm ổn định và đủ nguồn lực đáp ứng nhu cầu TGPL của người dân có chất lượng.
Thứ tư, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo điều kiện về kinh phí cho hoạt động của Trung tâm TGPL nhà nước, kinh phí triển khai nội dung TGPL trong 03 Chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai tại địa phương[6].
Thứ năm, tăng cường mối quan hệ phối hợp với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhất là các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong việc phối hợp TGPL trong hoạt động TGPL. Tăng cường vai trò của Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL ở trung ương và địa phương trong việc triển khai các quy định về phối hợp TGPL trong tố tụng.
Tuyết Minh – Phòng Chính sách và quản lý nghiệp vụ
[1] Năm 2016: 6.836 vụ; năm 2020: 12.912 vụ, tăng 88,8%), và số vụ việc tham gia tố tụng bình quân trên mỗi Trợ giúp viên pháp lý tăng gần 82,8% (năm 2016: bình quân 12,2 vụ/1 Trợ giúp viên pháp lý; năm 2020: bình quân 22,3 vụ/1 Trợ giúp viên pháp lý
[2] Gồm 30 tổ chức hành nghề luật sư, 10 tổ chức tư vấn pháp luật.
[3] Gồm 146 tổ chức hành nghề luật sư, 34 tổ chức tư vấn pháp luật.
[4] 74.375 vụ việc TGPL tư vấn pháp luật; 1.254 vụ việc TGPL đại diện ngoài tố tụng. Số vụ việc tham gia tố tụng tăng dần theo các năm (năm 2018:11.860 vụ việc, năm 2019: 13.428 vụ việc, năm 2020: 16.168 vụ việc, năm 2021: 17.966 vụ việc).
[5] Chia theo người thực hiện: Trợ giúp viên pháp lý thực hiện 13.808 vụ việc, Luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL thực hiện 2.633 vụ việc. Một số Trung tâm TGPL nhà nước có số vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công, hiệu quả cao như: Điện Biên: 1.040 vụ việc; Nghệ An: 1.038 vụ việc; Đắk Lắk: 719 vụ việc; TP Hồ Chí Minh: 613 vụ việc; TP Hà Nội: 553 vụ việc.
[6] Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững giai đoạn 2021 - 2025; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025