Hoàn thiện pháp luật về trợ giúp pháp lý đáp ứng yêu cầu đổi mới

09/09/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Sau gần 8 năm triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, Luật TGPL năm 2017 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự phát triển bền vững công tác TGPL theo hướng chuyên nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nhà nước và xã hội để cung cấp kịp thời dịch vụ pháp lý có chất lượng cho người thuộc diện TGPL, tạo bước chuyển biến căn bản trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL của nhà nước.

Trong bối cảnh hiện nay, Đảng, nhà nước đang chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, hợp nhất tỉnh, sáp nhập xã, chuyển đổi số quốc gia, nhiều nghị quyết quan trọng đã đề ra những định hướng, nhiệm vụ, giải pháp mang tính đột phá cho công cuộc phát triển toàn diện đất nước trong kỷ nguyên mới, trong đó có công tác TGPL. Chính vì vậy, Luật TGPL 2017 cần phải được rà soát, đánh giá để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn yêu cầu đổi mới.
 

Bài 1: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý ngày càng hoàn thiện
 

Hiện nay, cùng với Luật TGPL năm 2017, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khác như nghị định, thông tư... đã tạo cơ sở thống nhất, đồng bộ cho hoạt động TGPL. Công tác phối hợp về TGPL đã ngày càng được quan tâm và đẩy mạnh.

Tạo cơ sở pháp lý cho công tác TGPL

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác TGPL ngày càng thực chất, tập trung vào thực hiện vụ việc, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Hiện nay có 22 văn bản quy phạm pháp luật về TGPL, gồm Luật TGPL năm 2017, 1 nghị định, 15 thông tư và 5 thông tư liên tịch. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ cho hoạt động TGPL trên toàn quốc. Cùng với đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật có một số quy định về TGPL được ban hành như: Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật phòng, chống mua bán người, Nghị định số 121/2025/NĐ-CP ngày 11/6/2025 quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp...

Bên cạnh đó, chính sách TGPL đã được đưa vào các chương trình mục tiêu quốc gia và được triển khai đồng bộ cùng các chính sách về an sinh xã hội như: Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025; Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hoá giai đoạn 2025-2035; Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2030; Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030…

Các văn bản quy phạm pháp luật và các chương trình này đã góp phần hiện thực hóa các chủ trương chính sách của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 2013 và nội luật hóa các cam kết quốc tế về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiếp cận công lý, nhất là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. 

Phối hợp TGPL trong tố tụng được tăng cường, bảo đảm chặt chẽ và hiệu quả

Thời gian qua, công tác phối hợp trong TGPL đã được chú trọng. Luật TGPL đã quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc phối hợp bảo đảm quyền được TGPL của người dân thuộc diện được TGPL. Cụ thể, Luật TGPL quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc quản lý nhà nước và tổ chức thực hiện TGPL; UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về TGPL tại địa phương; trách nhiệm của các cơ quan tố tụng như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong việc phối hợp TGPL trong tố tụng; các tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư như Liên đoàn Luật sư Việt Nam, đoàn luật sư tỉnh/thành phố; tổ chức chủ quản của tổ chức tư vấn pháp luật… có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp quản lý, giám sát việc thực hiện TGPL của các tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình.
 

Rất đông người dân đến tham gia nghe tuyên truyền pháp luật về TGPL.
Rất đông người dân đến tham gia nghe tuyên truyền pháp luật về TGPL.


Trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng. Tiếp đó là Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao quy định người thực hiện TGPL trực tại Toà án nhân dân; Chương trình phối hợp số 5789/CTPH-BTP-BCA ngày 27/11/2023 giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về trực TGPL trong hoạt động điều tra hình sự; Quy chế phối hợp số 4617/QCPH/BTP-LĐLSVN ngày 28/12/2016 giữa Bộ Tư pháp với Liên đoàn Luật sư Việt Nam về hoạt động TGPL của Luật sư. Trên cơ sở các văn bản trên, các địa phương đã triển khai và ban hành kế hoạch, chương trình phối hợp tại địa bàn tạo cơ sở triển khai công tác phối hợp TGPL được thống nhất và toàn diện trên phạm vi toàn quốc.

Như vậy, có thể thấy, công tác phối hợp liên ngành trong hoạt động TGPL ngày càng được chú trọng và đẩy mạnh. Mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó có cơ quan tiến hành tố tụng, đã tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo cho hoạt động TGPL được thực hiện một cách tốt nhất.

Theo Công an Nhân dân

Xem thêm »