Thực trạng dịch vụ công trợ giúp pháp lý và quản lý dịch vụ công trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

06/02/2023
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

I. Một số nội dung về dịch vụ công trợ giúp pháp lý ở Việt Nam

1. Trợ giúp pháp lý là một loại dịch vụ pháp lý đặc biệt, là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu
Theo từ điển Luật học thì dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội... Người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi và được coi như một nghề. Người được hưởng dịch vụ pháp lý được thoả mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp.
Tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập, dịch vụ sự nghiệp công được xác định là dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo; giáo dục nghề nghiệp; y tế - dân số; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin và truyền thông; khoa học và công nghệ; các hoạt động kinh tế và lĩnh vực khác (gồm: nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, tư pháp, lao động thương binh và xã hội, sự nghiệp khác.
Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý quy định: trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Và theo Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp thì trợ giúp pháp lý là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu. Hiện nay, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thành phố là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động tố tụng tư pháp. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Được xác định là một dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu đã phần nào khẳng định vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý với tư cách là một loại hình dịch vụ pháp lý trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, có thể nói, trợ giúp pháp lý là loại hình dịch vụ pháp lý đặc biệt với những đặc điểm như sau:
  1. Trợ giúp pháp lý là cung cấp vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.
  2. Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
  3. Người thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý gồm các nhóm người nghèo, chính sách (như người dân tộc thiểu số, người có công...) và nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội.
  4. Trợ giúp pháp lý hoàn toàn miễn phí, không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác dành cho người thụ hưởng chính sách).
  5. Trợ giúp pháp lý thực hiện trong tất cả các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại với các hình thức trợ giúp gồm: Tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng.
2. Một số quy định pháp luật về dịch vụ công trợ giúp pháp lý và quản lý dịch vụ công trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
- Người được thụ hưởng dịch vụ công trợ giúp pháp lý (người được trợ giúp pháp lý): Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý quy định về 14 diện người được trợ giúp pháp lý cụ thể: Người có công với cách mạng; Người thuộc hộ nghèo; Trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (gồm 08 nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV). Với các quy định này, theo ước tính thống kê số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trên cả nước chiếm khoảng 45% dân số.
- Tổ chức cung cấp dịch vụ công trợ giúp pháp lý (tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý):  Điều 10 và Điều 11 Luật Trợ giúp pháp lý quy định tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp. Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý có thể là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đủ điều kiện theo quy định Luật Trợ giúp pháp lý kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp.
- Người cung cấp dịch vụ công trợ giúp pháp lý (người thực hiện trợ giúp pháp lý): Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý (viên chức thực hiện trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp thuộc số lượng người làm việc của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước); Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
- Hình thức, lĩnh vực cung cấp của dịch vụ công trợ giúp pháp lý: Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý quy định trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng như đã đề cập ở trên.
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động trợ giúp pháp lý: Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định trách nhiệm của Nhà nước (Điều 4), trách nhiệm của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 13), trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 18), trách nhiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý của Chính phủ, của Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 40), trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến trợ giúp pháp lý trong tố tụng (Điều 41) và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan (Điều 42), trách nhiệm của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (Điều 43) và tổ chức chủ quan của tổ chức tư vấn pháp luật (Điều 44). Bên cạnh đó, tại các Thông tư, Thông tư liên tịch có liên quan khác cũng có quy định một số trách nhiệm của Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã,... trong hoạt động trợ giúp pháp lý.  
- Nội dung quản lý nhà nước dịch vụ công trợ giúp pháp lý: Điều 40 Luật Trợ giúp pháp lý quy định Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý với các nhiệm vụ, quyền hạn như sau: Chủ trì xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý; xây dựng, ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành chiến lược, kế hoạch phát triển trợ giúp pháp lý và tổ chức triển khai thực hiện; ban hành các quy định hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, mẫu giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tiêu chí xác định vụ việc trợ giúp pháp lý phức tạp, điển hình; thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về trợ giúp pháp lý; hướng dẫn, tổ chức và theo dõi việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp pháp lý; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho người thực hiện trợ giúp pháp lý; tổ chức công tác truyền thông về trợ giúp pháp lý và việc thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý; khen thưởng, kỷ luật và xử lý vi phạm trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tiếp nhận hỗ trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân cho công tác trợ giúp pháp lý; thực hiện hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý.
II. Thực trạng dịch vụ công trợ giúp pháp lý và quản lý dịch vụ công trợ giúp pháp lý
  1. Về hoàn thiện pháp luật dịch vụ công trợ giúp pháp lý và quản lý dịch vụ công trợ giúp pháp lý
Ra đời từ những năm cuối của thế kỷ XX bằng Quyết định số 734/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (ngày 06/9/1997), đến nay đã trải qua hai lần xây dựng, sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 (được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI) và mới được thay thế bởi Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV). Đây là những dấu ấn quan trọng, tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới. Đặc biệt, mới đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp về trợ giúp pháp lý.
Trong công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật về lĩnh vực trợ giúp pháp lý dần hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Hiện nay hệ thống văn bản về trợ giúp pháp lý bao gồm Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư liên tịch, Thông tư. Nội dung trợ giúp pháp lý cũng đã được đồng bộ hóa trong các Bộ luật, luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật... Bên cạnh đó, Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989; Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966; Các Nguyên tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về quyền về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự 2012...
Cùng với đó, hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong những năm qua đã góp phần vào công tác giảm nghèo bền vững và đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua và đáp ứng nhu cầu tình hình thực tiễn, hiện nay trợ giúp pháp lý đã được ghi nhận trong tất cả Chương trình mục tiêu quốc gia: về giảm nghèo bền vững[1], xây dựng nông thôn mới[2] và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025[3].
Đến nay, có thể nói rằng khung pháp luật về trợ giúp pháp lý đã tương đối toàn diện, tiếp tục khẳng định trợ giúp pháp lý là một chế định pháp luật gắn liền với chế định tư pháp, xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho nhóm đối tượng yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách cần được quan tâm giúp đỡ trong các vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
  1. Thực trạng dịch vụ công trợ giúp pháp lý và quản lý dịch vụ công trợ giúp pháp lý
Triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động dịch vụ công trợ giúp pháp lý đã đạt được những kết quả tích cực như sau:
         - Về tổ chức trợ giúp pháp lý: Hiện nay việc quản lý về trợ giúp pháp lý được thực hiện theo hai cấp, trung ương và địa phương. Ở trung ương, có Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý. Ở địa phương có Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Hệ thống tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp. Đến nay, cả nước có 63 Trung tâm TGPL nhà nước, 99 Chi nhánh thuộc các Trung tâm TGPL, với tổng số 1234 viên chức, người lao động, trong đó có 668  trợ giúp viên pháp lý (chưa tính 64 người đã đạt kết quả trong kỳ kiểm tra kết quả tập sự TGPL năm 2022 đang được thực hiện thủ tục bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý); có 27 tổ chức ký hợp đồng với 09 Sở Tư pháp thực hiện TGPL; 169 tổ chức đăng ký tham gia TGPL với 21 Sở Tư pháp; 607 Luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với 57 Trung tâm; 38 Cộng tác viên ký Hợp đồng với 04 Trung tâm.
Có thể nói, mặc dù số lượng người làm việc tại các Trung tâm trên toàn quốc không tăng nhưng chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý tăng lên đáng kể. Tỷ lệ số lượng trợ giúp viên pháp lý trên tổng số người làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý từng bước được nâng lên, số lượng người làm chuyên môn (Trợ giúp viên pháp lý và chuyên viên pháp lý) và tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý nâng cao hơn so với thời điểm triển khai Luật TGPL năm 2006. Quy định trợ giúp viên pháp lý có tiêu chuẩn, điều kiện tương đồng với luật sư, đây là chức danh viên chức có 03 hạng (năm 2022 mới được bổ sung thêm chức danh trợ giúp viên pháp lý hạng I – Đây là hạng cao nhất của chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý và lần đầu tiên trong các chức danh viên chức sự nghiệp thuộc ngành tư pháp quản lý có chức danh nghề nghiệp viên chức hạng I[4]). Hiện nay, các Trợ giúp viên pháp lý đều đã đáp ứng các yêu cầu của đào tạo nghề, hạng chức danh (phải trải qua lớp đào tạo nghề, tập sự và đạt kết quả tại kỳ kiểm tra hết tập sự do Bộ Tư pháp tổ chức mới được bổ nhiệm chức danh và hành nghề). Đến nay, trợ giúp viên pháp lý đã trở thành đội ngũ nòng cốt trong cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý và số lượng vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý tăng hằng năm. So với cùng kỳ năm 2021, số lượng vụ việc tham gia tố tụng do Trợ giúp viên pháp lý kết thúc năm 2022 là 17.266 vụ, tăng 2.404 vụ; có 59/63 Trung tâm có 100% Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành chỉ tiêu, trong đó có 14 Trung tâm có 100% Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành chỉ tiêu tốt; số lượng trợ giúp viên pháp lý đạt chỉ tiêu ở mức độ tốt (mức cao nhất) là 402 người, tăng 104 người.
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc nhằm đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân, hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý, trong đó, tập trung vào các kỹ năng tham gia tố tụng hình sự, dân sự, hành chính và các kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. Ở địa phương, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý của địa phương. 100% trợ giúp viên pháp lý hoàn thành nghĩa vụ tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc theo quy định. Các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định nhằm bảo đảm chất lượng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân. Các vụ việc TGPL do các tổ chức, cá nhân tham gia TGPL thực hiện được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên. 
           Về số lượng và chất lượng dịch vụ công trợ giúp pháp lý:
Thời gian qua, các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng, đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng nhiều hơn, chất lượng hơn. Đặc biệt, trong thời gian bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, hệ thống TGPL đã nỗ lực, chủ động trong tiếp cận vụ việc và triển khai các hoạt động hướng tới mục tiêu cốt lõi là thực hiện vụ việc với chất lượng tốt nhất, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của người được TGPL. Trong năm 2022, nhiều vụ việc nổi cộm được báo chí đưa tin, dư luận xã hội quan tâm đã được Cục TGPL, Bộ Tư pháp theo dõi, chỉ đạo và các Trung tâm TGPL chủ động, kịp thời tiếp cận nhu cầu TGPL để cử người thực hiện TGPL bảo vệ quyền và lợi ích kịp thời, hiệu quả cho người được TGPL.
Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến nay (từ năm 2018 đến hết năm 2022), các tổ chức thực hiện TGPL trên cả nước đã thực hiện được trên 150 nghìn vụ việc, trong đó có hơn 76 nghìn vụ tham gia tố tụng (chiếm 48%). Năm 2022 số lượng các vụ việc tăng lên so với năm 2021, riêng số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc tăng 19%[5]. Từ khi triển khai Luật TGPL đến nay, số lượng vụ việc tham gia tố tụng ngày càng tăng và năm 2022 là năm có số lượng vụ việc tham gia tố tụng thực hiện cao nhất từ trước tới nay.
Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao. Theo định hướng của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và sự chỉ đạo, điều hành kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã có chuyển biến rõ nét. Công tác quản lý, thẩm định và đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý được quan tâm, chú trọng nhằm kiểm soát chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã cung cấp cho người dân. Chất lượng, hiệu quả vụ việc được xác định căn cứ vào các tiêu chí cụ thể. Về cơ bản, các vụ việc được thẩm định, đánh giá chất lượng đều đạt chất lượng trở lên, người dân cơ bản hài lòng với chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý được cung cấp. Đặc biệt, có nhiều vụ việc thành công, hiệu quả rõ ràng người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân... Theo tổng hợp từ địa phương từ năm 2018 – 2022 có hơn 23 nghìn vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả. Riêng năm 2022 có gần 7,5 nghìn vụ việc tham gia tố tụng thành công, chiếm 37% tổng số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc.
Với những kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý đạt được trong thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận công lý và công bằng trong xét xử, tạo niềm tin của người dân nói chung và người được trợ giúp pháp lý nói riêng vào tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cũng như đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc.
Bên cạnh đó, hoạt động trợ giúp pháp lý còn đạt một số kết quả nổi bật khác như sau:
- Trong thời gian gần đây việc phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có nhiều chuyển biến tích cực, đột phá:
Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước ngày càng được củng cố, giúp người thuộc diện trợ giúp pháp lý sớm tiếp cận với thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý và thụ hưởng khi có nhu cầu. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng việc giải thích, thông tin, thông báo và tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện vụ việc theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản pháp luật có liên quan. Mới đây, ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án (Chương trình phối hợp 1603/CTPH-BTP-TANDTC). Lần đầu tiên có cơ chế người thực hiện TGPL trực tại Tòa án nhân dân trong phạm vi toàn quốc, qua đó sẽ giúp bảo đảm tiếp cận và thụ hưởng TGPL kịp thời trong tố tụng cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thuộc diện được TGPL, hạn chế việc người dân thuộc diện trợ giúp pháp lý bị bỏ lỡ cơ hội được nhận dịch vụ pháp lý miễn phí.
Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ký kết Chương trình/Kế hoạch phối hợp giữa Sở Tư pháp với Tòa án nhân dân tỉnh và các địa phương đều đã triển khai thực hiện việc người thực hiện TGPL trực tại trụ sở Tòa án hoặc Tòa án thông báo cho Trung tâm TGPL nhà nước các thông tin về người thuộc diện TGPL cho người thực hiện TGPL qua điện thoại. Cùng với đó, để triển khai nội dung điểm cầu thành phần trong phiên tòa trực tuyến theo Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến, trong năm 2022 một số địa phương đã lập dự toán kinh phí, bố trí cơ sở vật chất, trang thiết bị và tham gia vào phiên tòa trực tuyến.
Bên cạnh mối quan hệ phối hợp về TGPL trong tố tụng, các Sở Tư pháp/Trung tâm TGPL nhà nước còn tích cực phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương trong việc huy động luật sư có kinh nghiệm, uy tín tham gia trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức như Hội Nông dân, Hội Luật gia, Hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc Việt nam... trong việc truyền thông về TGPL và giới thiệu hội viên có nhu cầu TGPL đến Trung tâm. Đặc biệt, trong năm 2022 để thực hiện quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP, nhiều địa phương (Sở Tư pháp/Trung tâm TGPL) đã ban hành công văn, văn bản đến UBND cấp xã đề nghị phối hợp triển khai thực hiện trách nhiệm thông tin, giới thiệu về TGPL. Một số địa phương đã triển khai có kết quả nội dung này (ví dụ như ở Tuyên Quang, Vũng Tàu...)...
- Hoạt động truyền thông về dịch vụ công trợ giúp pháp lý ngày càng đổi mới, đa dạng theo các phương thức khác nhau:
 Ở Trung ương: Nhằm tích cực lan tỏa hoạt động cũng như kết quả của công tác TGPL, Cục TGPL, Bộ Tư pháp chủ động phối hợp để xây dựng, phát sóng các phóng sự về công tác TGPL theo chuyên đề, các phóng sự về vụ việc TGPL thành công, hiệu quả, các thông điệp về TGPL trên các kênh truyền hình Trung ương, có nhiều người theo dõi như Đài Truyền hình Việt Nam, Truyền hình Quốc hội, Đài tiếng nói Việt Nam,…; tổ chức các đợt truyền thông về TGPL điểm, luân phiên kết nối cộng đồng nâng cao kiến thức TGPL cho người dân và các trưởng thôn, bản, cán bộ chi hội đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng ở một số địa phương; thường xuyên duy trì Trang thông tin điện tử TGPL, chú trọng các bài nghiên cứu, trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, các tin bài theo những ngày lễ, kỷ niệm; cập nhật danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp...
 Ở địa phương: Đa số các Trung tâm TGPL nhà nước phối hợp với các cơ quan, đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...) để giới thiệu thông tin về TGPL cho thành viên, hội viên của các tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan báo chí để đăng tải các câu chuyện pháp luật TGPL, nghiên cứu, trao đổi nghiệp vụ về TGPL, hoạt động TGPL, giải đáp các vướng mắc về pháp luật mà người dân thường gặp; đăng tải các thông tin về tổ chức và hoạt động của Trung tâm; một số địa phương xây dựng chuyên mục “Câu chuyện TGPL” trên báo địa phương; xây dựng các phóng sự TGPL phát trên đài truyền hình hoặc báo địa phương; tổ chức các đợt truyền thông về TGPL ở cơ sở để trực tiếp truyền thông, hướng dẫn thông tin về TGPL cho người dân; xây dựng các bảng tin, hộp tin, tờ rơi, tờ gấp về TGPL; tổ chức các đợt TGPL cao điểm để mừng các ngày lễ, kỷ niệm hàng năm; cập nhật danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL trên Trang thông tin điện tử Sở Tư pháp...
Nhìn chung, hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý của trung ương và địa phương đã có những đổi mới, đa dạng hơn về hình thức và các nội dung có tác động rõ rệt đến xã hội, phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương, qua đó, người dân dễ dàng tiếp cận được thông tin về TGPL để biết và kịp thời sử dụng khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dịch vụ công trợ giúp pháp lý ngày càng được tăng cường:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL được tăng cường ở cả Trung ương và địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân trong việc tiếp cận và sử dụng TGPL khi có nhu cầu thông qua việc đăng tải các thông tin, quy định về TGPL, danh sách người thực hiện và tổ chức thực hiện TGPL trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Trang thông tin điện tử TGPL Việt Nam và các trang thông tin điện tử địa phương; triển khai có hiệu quả việc sử dụng Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL. Hiện nay, ngoài Trang thông tin điện tử TGPL ở Trung ương và địa phương, trên các trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân các cấp đều có chỉ dẫn TGPL để người dân dễ dàng tiếp cận, sử dụng khi vào các trang thông tin điện tử này. Bên cạnh đó, từ năm 2019, Cục TGPL đã xây dựng Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL nhằm giúp các Trung tâm TGPL nhà nước, các tổ chức tham gia TGPL cập nhật, số hóa hồ sơ vụ việc cũng như thực hiện việc thống kê, báo cáo về TGPL theo quy định. Đến nay, việc cập nhật về tổ chức, vụ việc TGPL đã dần đi vào nề nếp.
Bên cạnh đó, trong năm 2022 Cục TGPL và các địa phương đã tập trung triển khai các nội dung TGPL trong 03 Chương trình mục tiêu quốc gia theo các Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 và Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ...; hơn nữa nhằm chú trọng thực hiện TGPL cho các đối tượng đặc thù, yếu thế trong xã hội, Cục TGPL, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện TGPL theo từng nhóm đối tượng như: trẻ em, người cao tuổi có khó khăn về tài chính, nạn nhân trong các vụ việc bạo lực gia đình có khó khăn về tài chính,…
III. Dự báo nhu cầu trợ giúp pháp lý và một số giải pháp phát triển dịch vụ công trợ giúp pháp lý trong thời gian tới
  1. Dự báo nhu cầu trợ giúp pháp lý trong thời gian tới
Trong thời gian qua, trợ giúp pháp lý đã trở thành một trong những chỗ dựa cho người nghèo, đối tượng chính sách và nhóm người yếu thế trong xã hội khi phải đối diện với các vướng mắc, tranh chấp pháp lý. Hơn nữa, trình độ dân trí nói chung và trình độ pháp lý nói riêng của người dân nước ta còn chưa cao và không đồng đều, nhu cầu trợ giúp pháp lý của các đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý là rất lớn. Mặt khác, tính chất các quan hệ xã hội phát sinh ngày càng diễn biến phức tạp nên càng yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thụ hưởng chính sách này.
So với giai đoạn trước đây, vụ việc trợ giúp pháp lý đã đi vào thực chất, tuy nhiên so với số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý và nhu cầu trợ giúp pháp lý, số lượng vụ án được xét xử trên địa bàn, trên toàn quốc thì vẫn còn chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, đặc biệt là số lượng vụ việc tham gia tố tụng. Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, với 14 diện người được quy định thì số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý tăng lên rất nhiều so với trước kia (khoảng 45% dân số).
Cùng với đó, khi triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường, đổi mới hoạt động truyền thông qua nhiều kênh thông tin; sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong triển khai cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại tòa, tại cơ quan điều tra, trong giải thích, thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý; hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác, nhất là ở cấp cơ sở như Ủy ban nhân dân cấp xã...; hiệu quả của việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để chia sẻ, kết nối, tích hợp dữ liệu người thuộc diện được trợ giúp pháp lý với cơ sở dữ liệu quốc gia và các bộ, ngành có liên quan... thì dự báo trong thời gian tới nhiều người thuộc diện được trợ giúp pháp lý sẽ biết đến quyền được trợ giúp pháp lý và sẽ tiếp cận, sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2. Một số giải pháp phát triển drợ giúp pháp lý trong thời gian tới
Ở nhiều nước trên thế giới cũng đã xác định trợ giúp pháp lý là một hoạt động cần thiết, đồng hành cũng quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam là tiếp tục xác định hoạt động này là trách nhiệm của Nhà nước cho người nghèo, người có công với cách mạng, các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội. Bởi vì, dù xã hội phát triển đến đâu vẫn tồn tại những người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương trong xã hội. Và khi vẫn còn những người cần đến sự trợ giúp như vậy thì trợ giúp pháp lý vẫn tồn tại với tư cách là trách nhiệm, là công cụ của Nhà trước trong bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.
Trước yêu cầu triển khai hiệu quả nội dung của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “nâng cao chất lượng dịch vụ công”, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[6], “Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý...”[7] và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được giao tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, cụ thể: “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật” (mục 3 phần IV Nghị quyết); “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước” (mục 7 phần IV Nghị quyết), để tiếp tục phát huy những thành tựu mà hoạt động trợ giúp pháp lý đã đạt được, đóng góp tích cực hơn nữa vào sự phát triển của ngành tư pháp, vì một nền Tư pháp vì dân, trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể sau đây:
  • Về thể chế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế về trợ giúp pháp lý theo hướng đánh giá việc thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và nghiên cứu, đề xuất sửa đổi một số điều của Luật, Nghị định 144/2017/NĐ-CP... cho phù hợp với tình hình, yêu cầu từ thực tiễn (như nghiên cứu mở rộng một số đối tượng được trợ giúp pháp lý...); xây dựng Đề án nâng cao vai trò, hiện đại hóa, phát triển trợ giúp pháp lý đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
  • Tiếp tục kiện toàn, tăng cường năng lực Trung tâm TGPL Nhà nước tương xứng với vị trí là đơn vị cung cấp sự nghiệp công thiết yếu, kiện toàn các Chi nhánh đã có (bảo đảm về nhân sự, điều kiện làm việc, cơ sở  vật chất), thành lập Chi nhánh mới khi đáp ứng yêu cầu của Luật TGPL và đáp ứng nhu cầu thực tế tại địa phương. Nâng cao chất lượng và xác định chức danh Trợ giúp viên pháp lý với tư cách là một chức danh tư pháp, có thể nghiên cứu về việc đổi tên thành luật sư trợ giúp pháp lý được Nhà nước trả lương để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà Nước.
  • Tiếp tục tập trung thực hiện vụ việc TGPL, nhất là vụ việc tham gia tố tụng có chất lượng, hiệu quả; tăng cường quản lý chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
  • Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác TGPL trong toàn quốc, nhất là công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng về giải thích, giới thiệu, thông tin, thông báo về nhu cầu TGPL, trực qua điện thoại kết nối với cơ quan tố tụng..... Triển khai hiệu quả Chương trình phối hợp về người thực hiện TGPL trực tại Tòa án nhân dân. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước như Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc thông tin, giới thiệu về TGPL cho người dân.
  • Tiếp tục truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết về TGPL của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ TGPL. Khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động TGPL, nhất là đội ngũ luật sư có kinh nghiệm tranh tụng. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL, vận hành, khai thác, sử dụng hiệu quả Hệ thống Quản lý tổ chức và hoạt động TGPL..../.
Khả Hân
 

[1] ngày 18/01/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
[2] Ngày 22/02/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
[3] Ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ năm 2021 – 2025.
[4] Thông tư số 05/2022/TT-BTP ngày 05/9/2022 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý.
[5] Theo thống kê từ báo cáo của các địa phương.
[6] theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, trang 177.
[7] phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.

Xem thêm »