Hoạt động trợ giúp pháp lý đặt trong xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý tại Việt Nam

01/07/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

I. Khái quát thị trường dịch vụ pháp lý


I. Khái quát thị trường dịch vụ pháp lý
1. Khái niệm
Về thị trường:
Theo Từ điển luật học, thị trường là “Nơi thực hiện các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, trao đổi các loại hàng hoá, dịch vụ, vốn, sức lao động và các nguồn lực khác trong nền kinh tế”. Thị trường được cấu thành bởi các yếu tố căn bản sau:
- Chủ thể tham gia thị trường, gồm có người mua, người bán, người môi giới và chủ thể quản lý nhà nước đối với thị trường. Chủ thể quản lí nhà nước đối với thị trường là các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ giám sát, quản lý thị trường, đảm bảo cho thị trường vận hành an toàn và trôi chảy, chẳng hạn như trong thị trường chứng khoán.
Khách thể thị trường là đối tượng mà các chủ thể hướng đến trong giao dịch mua bán, trao đổi như hàng hoá, dịch vụ, vốn, sức lao động và các nguồn lực khác. Tài sản giao dịch trên thị trường có thể là tài sản hữu hình hoặc tài sản vô hình, có thể là tài sản đã tồn tại hoặc tài sản được hình thành trong tương lai;
Giá cả trên thị trường được hình thành trên cơ sở cung cầu.
Về dịch vụ pháp lý:
Theo Từ điển luật học,Dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội... Người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi và được coi như một nghề. Người được hưởng dịch vụ pháp lý được thoả mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp”.
Theo WTO, dịch vụ pháp lý được quy định khái quát “bao gồm các lĩnh vực tư vấn và đại diện đối với pháp luật nước tiếp nhận dịch vụ, pháp luật của nước sở tại, nước thứ ba, luật pháp quốc tế; dịch vụ chứng thực giấy tờ tài liệu; các dịch vụ tư vấn và thông tin khác”. Cụ thể theo WTO, dịch vụ pháp lý (legal services) bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ tranh tụng cũng như toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc thi hành công lý (như hoạt động của thẩm phán, công tố viên, v.v...).
Về quy định của pháp luật Việt Nam:
Theo Điều 4 Luật Luật sư năm 2006; sửa đổi, bổ sung năm 2012 (sau đây gọi là Luật Luật sư 2006) thì Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác”. Theo khoản 1 Điều 30 của Luật thì “Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật”.
Theo Điều 2 Luật trợ giúp pháp lý năm 2017, Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý quy định rõ: “Trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại” với các hình thức trợ giúp gồm: (a) Tham gia tố tụng; (b) Tư vấn pháp luật; (c) Đại diện ngoài tố tụng.
Theo Điều 7 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật, “Trung tâm tư vấn pháp luật được thực hiện tư vấn pháp luật; được cử luật sư làm việc theo hợp đồng cho Trung tâm tham gia tố tụng để bào chữa, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật đối với vụ việc mà Trung tâm thực hiện tư vấn pháp luật; được thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý” để thực hiện tư vấn pháp luật cho thành viên, hội viên, đoàn viên của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật và cá nhân, tổ chức khác.
Về “Thị trường dịch vụ pháp lý”
Hiện nay ở Việt Nam chưa có định nghĩa, khái niệm thống nhất về thuật ngữ này. Từ những khái niệm về dịch vụ pháp lý, thị trường và từ tham khảo quốc tế về thị trường dịch vụ pháp lý như đã nêu ở trên, chúng ta có thể hiểu “Thị trường dịch vụ pháp lý” là nơi những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện các dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội”. Hoặc có thể hiểu theo cách khác, “Thị trường dịch vụ pháp lý là nơi cung cấp dịch vụ, hàng hóa liên quan đến pháp luật do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề. Họ tư vấn cho khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác) về các quyền và lợi ích hợp pháp của họ; đồng thời đại diện cho khách hàng trong các vụ việc dân sự và hình sự, giao dịch kinh doanh và các vấn đề khác thông qua tư vấn pháp lý và các hỗ trợ khác theo quy định của pháp luật”.
Thị trường dịch vụ pháp lý, trước hết được xác định là “thị trường dịch vụ”, do vậy, nó mang đầy đủ các đặc điểm, yếu tố của thị trường nói chung như tuân thủ và vận hành theo các quy luật của thị trường (quy luật cung – cầu; quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh...) và mang đầy đủ đặc điểm của thị trường dịch vụ, như tính tính vô hình, tính không thể tách rời, tính không thể cất giữ, tính đa dạng và sự tham gia của người tiêu dùng... Tuy nhiên, nó cũng có những đặc điểm riêng biệt như: phụ thuộc vào thể chế chính trị và pháp luật của mỗi quốc gia; chịu sự tác động của định hướng đối ngoại của quốc gia và gắn chặt với sự phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ và vùng miền.
2. Vài nét về thị trường dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chưa có quy định riêng về thị trường dịch vụ pháp lý, chỉ có các quy định về hình thức, thẩm quyền quản lý, cung cấp/thực hiện một hoặc nhiều hoạt động là dịch vụ pháp lý, như: Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012); Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật Trọng tài thương mại năm 2010… và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Nội dung các văn bản này quy định rõ về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; quy định cụ thể về tiêu chuẩn hành nghề, chứng chỉ hành nghề, hình thức hành nghề, quyền và nghĩa vụ của các chức danh; trình tự thủ tục hành nghề và về thù lao, chi phí, nội dung quản lý nhà nước theo phạm vi tương ứng.
Từ năm 2011 - 2020, đội ngũ luật sư cả nước đã tăng từ 6.250 lên hơn 15.000. Số lượng luật sư hành nghề chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài đã có bước phát triển, tăng hơn 50 lần (tăng từ 20 đến 1.000 luật sư, chuyên gia pháp luật). Đa số luật sư phục vụ hội nhập trưởng thành qua môi trường làm việc thực tế, học hỏi, trao đổi với các đồng nghiệp nước ngoài tại thị trường trong nước. Về phát triển tổ chức hành nghề luật sư, số lượng tổ chức hành nghề luật sư tăng từ 2.928 năm 2011 lên hơn 4.400 tổ chức năm 2020, tập trung chủ yếu tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các tỉnh thuộc khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, số lượng tổ chức hành nghề luật sư cũng đã có sự gia tăng. Việc thành lập nhiều tổ chức hành nghề luật sư đã tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với dịch vụ của luật sư. Một số tổ chức hành nghề luật sư bước đầu phát huy được thế mạnh, xây dựng được thương hiệu của mình, cũng như tạo được sự tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và quốc tế, trở thành “đối tác” cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài và được các tạp chí uy tín trong khu vực xếp hạng đang ngày một gia tăng với nhiều gương mặt mới. Các tổ chức hành nghề luật sư này cũng là nơi tập hợp đông đảo đội ngũ luật sư giỏi, thông thạo ngoại ngữ, am hiểu pháp luật, tập quán thương mại quốc tế, có khả năng giúp Chính phủ, các doanh nghiệp, tổ chức giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong lĩnh vực này.
Theo Báo cáo số 09/BC-LĐLSVN ngày 04/5/2020 của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, từ tháng 6/2009 đến hết năm 2019, các luật sư đã tham gia 333.907 vụ, việc về tố tụng, 121.744 vụ việc về dân sự và hôn nhân gia đình, 54.170 vụ việc về kinh tế, thương mại, 11.725 vụ việc về hành chính, lao động. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư đã góp phần quan trọng trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo, giảm tình trạng oan sai, làm sáng tỏ sự thật khách quan, xét xử đúng người đúng tội, bước đầu thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa. Hoạt động tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp, tổ chức trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại quốc tế đã tạo được tín nhiệm trên thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực, trở thành “đối tác” cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài. Các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư đã tích cực, chủ động tham gia trợ giúp, hợp tác với các công ty luật nước ngoài trong quá trình giải quyết vụ việc về phòng vệ thương mại của nước ngoài đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, giải quyết tranh chấp theo cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO mà một bên tham gia là Chính phủ Việt Nam. Hoạt động đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác như dịch vụ liên quan đến thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động sản, xuất nhập cảnh... cũng có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây.
Xu hướng phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý
Trong thời gian tới, việc phát triển dịch vụ pháp lý và thúc đẩy sự hình thành và phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý là một trong các biện pháp góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân; là vấn đề chính trị - pháp lý đã được Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội quan tâm, đặc biệt đối với Việt Nam khi khẳng định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Định hướng này đã được khẳng định tại Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, trong Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, một trong các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô là tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp”. 
Để tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý theo định hướng đã được khẳng định tại Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, trong thời gian tới cần: sớm hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ pháp lý và thị trường dịch vụ pháp lý cũng như có cơ chế phù hợp để thúc đẩy thị trường dịch vụ pháp lý phát triển; hoàn thiện pháp luật về dân sự, thương mai bảo đảm sự an toàn, thông thoáng, công bằng trong các quan hệ dân sự, thương mại cũng như trong giải quyết vụ việc khi có tranh chấp; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng; hoàn thiện pháp luật về tố tụng tư pháp và tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi và tăng khả năng tiếp cận công lý của người dân, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền của những người tham gia tố tụng. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền hành nghề của luật sư, tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia đầy đủ và thực chất trong hoạt động tố tụng. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp đồng bộ với pháp luật tố tụng tư pháp; phát huy một cách thực chất vai trò của chế định bổ trợ tư pháp nhất là vai trò của luật sư trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tư pháp; tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý về luật sư và hành nghề luật sư; nâng cao chế độ tự quản của tổ chức xã hội- nghề nghiệp của luật sư; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực xã hội cho hoạt động bổ trợ tư pháp...
II. Trợ giúp pháp lý là một dịch vụ pháp lý đặc biệt, dịch vụ công thiết yếu
1. Dịch vụ công
Dịch vụ công có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn có Chính phủ, bao gồm từ các hoạt động bah hành chính sách, pháp lu ật, toà án…cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công công.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà Chính phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
Ở Việt Nam, căn cứ theo tính chất và và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể phân chia dịch vụ công thành 3 nhóm cơ bản, gồm: i) Dịch vụ hành chính công; ii) Dịch vụ sự nghiệp công; iii) Dịch vụ công ích.
- Dịch vụ hành chính công: là “những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý hoặc dưới hình thức thông báo kết quả thực hiện trong các lĩnh vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý. Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một hoặc một số thủ tục hành chính để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân” (theo khoản 4 Điều 3 Nghị định số 42/2022/NĐ-CP ngày 24/6/2022 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng).
Dịch vụ sự nghiệp công là: là “dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo; giáo dục nghề nghiệp; y tế - dân số; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin và truyền thông; khoa học và công nghệ; các hoạt động kinh tế và lĩnh vực khác (gồm: nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, tư pháp, lao động thương binh và xã hội, sự nghiệp khác)” (theo khoản 2 Điều 3 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập).
- Dịch vụ công ích: dịch vụ thiết yếu đối với đời sống kinh tế – xã hội của đất nước, địa phương hoặc cộng đồng dân cư mà Nhà nước cần bảo đảm vì lợi ích chung hoặc bảo đảm quốc phòng, an ninh và việc sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ này theo cơ chế thị trường khó có khả năng bù đắp chi phí (khoản 28 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020). Theo Điều 3 Nghị định 32/2019/NĐ-CP ngày 10/4/2019 của Chính phủ quy định giao nhiệm vụ, đặt hàng hoặc đấu thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước từ nguồn kinh phí chi thường xuyên thì Dịch vụ công ích là dịch vụ mà việc sản xuất, cung ứng dịch vụ này theo cơ chế thị trường khó có khả năng bù đắp chi phí hoặc dịch vụ có tính chất đặc thù; được Nhà nước trợ giá phần chênh lệch giữa giá tiêu thụ, giá dịch vụ theo quy định của Nhà nước hoặc phần chênh lệch giữa số tiền do người được hưởng dịch vụ công ích thanh toán theo quy định của Nhà nước, với chi phí hợp lý của nhà sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích để sản xuất, cung ứng dịch vụ công ích do Nhà nước đặt hàng (hoặc giao nhiệm vụ theo quy định của pháp luật chuyên ngành nếu có).
2. Trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý đặc biệt, là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu
Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Đây là dịch vụ pháp lý đặc biệt và là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu với những đặc điểm đặc trưng như sau:
  • Trợ giúp pháp lý là cung cấp vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.
  • Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
  • Người thụ hưởng dịch vụ bao gồm các nhóm người nghèo, chính sách (dân tộc, đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc và bảo vệ trẻ em...) và nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội.
  • Trợ giúp pháp lý hoàn toàn miễn phí (bao gồm khoản tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác) cho người thụ hưởng chính sách.
  • Trợ giúp pháp lý thực hiện trong tất cả các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Với những đặc trưng trên, trợ giúp pháp lý được coi là một loại dịch vụ pháp lý đặc biệt. Hơn nữa, tại Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp đã xác định dịch vụ trợ giúp pháp lý là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu. Theo đó, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thành phố là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động xét xử. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Được xác định là một dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu đã phần nào khẳng định vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý với tư cách là một loại hình dịch vụ pháp lý trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về định hướng phát triển, tại Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp, mỗi tỉnh, thành phố đều có 01 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại các tỉnh, thành phố để cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý; các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Ra đời từ những năm cuối của thế kỷ XX (theo Quyết định số 734/QĐ-TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ), đến nay trải qua gần 25 năm hình thành và phát triển, có thể nói hoạt động trợ giúp pháp lý đã thực sự đi vào đời sống pháp luật, mang lại hiệu quả thiết thực giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nước, bảo đảm sự công bằng trong tiếp cận công lý, đóng góp vào cải cách tư pháp, góp phần đáng kể vào sự phát triển của Ngành Tư pháp. Trong đó, phải điểm qua một số kết quả đạt được nổi bật sau đây:
- Trong công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, pháp luật về lĩnh vực trợ giúp pháp lý dần hoàn thiện, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 (được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI) và mới được thay thế bởi Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV) là những dấu ấn quan trọng, tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển bền vững của công tác trợ giúp pháp lý theo hướng chuyên nghiệp, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới. Chế định trợ giúp pháp lý cũng đã được đồng bộ hóa trong các Bộ luật, luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật... Trợ giúp pháp lý còn là một trong những nội dung triển khai trong các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025. Bên cạnh đó, Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế như Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989; Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966; các Nguyên tắc và hướng dẫn của Liên hợp quốc về quyền về tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự 2012... Sau trải qua hai lần xây dựng, sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý, đến nay có thể nói rằng khung pháp luật về trợ giúp pháp lý đã tương đối hoàn chỉnh, tiếp tục khẳng định trợ giúp pháp lý là một chế định pháp luật gắn với chế định tư pháp, xác lập trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho nhóm đối tượng yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý và những người thuộc diện chính sách cần được quan tâm giúp đỡ thông qua các hoạt động trợ giúp pháp lý liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc cụ thể.
- Chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng ngày càng tăng lên, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Từ sau khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, hoạt động trợ giúp pháp lý đã có sự chuyển hướng rõ rệt, các Trung tâm trợ giúp pháp lý đã tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng. Hoạt động phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng đã có nhiều chuyển biến, qua đó nguồn vụ việc tham gia tố tụng được tăng lên rõ rệt. Sau gần 25 năm thành lập, tính đến tháng 12/2021 các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được 2.304.834 vụ việc TGPL miễn phí, trong đó có 204.411 vụ việc tham gia tố tụng. Trong đó có nhiều vụ việc tham gia tố tụng thành công (trong 04 năm từ năm 2018 đến năm 2021 có 16.297 vụ việc tham gia tố tụng thành công) đã kịp thời bào chữa, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý, từng bước tạo được uy tín và niềm tin của người dân vào tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước. Các quan điểm bào chữa, bảo vệ của người thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý của người thực hiện trợ giúp pháp lý được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận, được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh, thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị của Viện Kiểm sát; được tăng mức bồi thường thiệt hại... Thời gian gần đây, nhiều vụ việc nổi cộm được báo chí đưa tin, dư luận xã hội quan tâm đã được Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp theo dõi, chỉ đạo và các Trung tâm trợ giúp pháp lý chủ động, kịp thời tiếp cận nhu cầu trợ giúp pháp lý để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích kịp thời cho người được trợ giúp pháp lý.
- Hệ thống trợ giúp pháp lý được củng cố, kiện toàn, tinh gọn, tăng cường năng lực. Hiện nay, toàn quốc có 63 Trung tâm TGPL nhà nước với 1.233 người, trong đó 666 Trợ giúp viên pháp lý; 104 Chi nhánh TGPL cấp huyện, liên huyện. Bên cạnh đó, chúng ta còn có 663 luật sư và 38 Cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL; 180 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 40 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp. Trong khi tổng số người làm việc tại Trung tâm TGPL không tăng, tỷ lệ số lượng trợ giúp viên pháp lý trên tổng số người làm việc tại Trung tâm TGPL từng bước được nâng lên, từ chiếm 45%[1] tăng lên chiếm 54%[2], điều đó thể hiện chất lượng nguồn nhân lực ngày càng tăng lên. Năng lực chuyên môn nghiệp vụ được nâng cao, tất cả các Trợ giúp viên pháp lý đều đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề, hạng chức danh, ngày càng thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, tiêu chuẩn, điều kiện của Trợ giúp viên pháp lý và luật sư là tương đồng.
Một số kết quả khác như truyền thông về TGPL không ngừng được đổi mới theo các phương thức khác nhau, gồm truyền thông truyền thống (trực tiếp về cơ sở, báo đài, tờ gấp…), truyền thông hiện đại (internet, điện thoại hotline,…) và hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin TGPL tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…); ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện TGPL thông qua hệ thống quản lý TGPL; thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được trợ giúp pháp lý...
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, dịch vụ sự nghiệp công TGPL cũng còn những hạn chế, bất cập sau đây: Số lượng vụ việc TGPL, trong đó có số lượng vụ việc tham gia tố tụng hàng năm vẫn còn thấp so với số người thuộc diện TGPL[3] và số lượng vụ án được xét xử trên trên toàn quốc. Số lượng tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TGPL vẫn ở mức độ. Chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL còn chưa đồng đều; việc quản lý chất lượng, kiểm tra, thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL còn chưa được quan tâm đúng mức, một vài nơi chưa được triển khai thường xuyên; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL mới ở giai đoạn bước đầu...
Hoạt động trợ giúp pháp lý trong xu thế phát triển của dịch vụ pháp lý ở Việt Nam theo tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Cũng như trên thế giới, xác định TGPL là một hoạt động cần thiết, đồng hành cũng quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Xu hướng phát triển của TGPL trong thời gian tới ở Việt Nam tiếp tục xác định hoạt động trợ giúp pháp lý là bền vững, là trách nhiệm của Nhà nước cho người nghèo, người có công với cách mạng, các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội. Bởi vì, dù xã hội phát triển đến đâu vẫn tồn tại những người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương trong xã hội. Và khi vẫn còn những người cần đến sự trợ giúp như vậy thì trợ giúp pháp lý vẫn tồn tại với tư cách là trách nhiệm, là công cụ của Nhà trước trong bảo đảm quyền con người tại Việt Nam. Trong tình hình mới, trước yêu cầu triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhiệm vụ nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý cần đáp ứng nhằm đáp ứng được vị trí trụ cột trong việc bảo đảm quyền tiếp cận pháp luật cho một bộ phận lớn người dân trong xã hội (45% dân số), qua đó, tạo sự công bằng trong tiếp cận công lý và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp nói riêng và trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung.
Trong thời gian tới cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp như sau:
  • Tiếp tục hoàn thiện thể chế về trợ giúp pháp lý theo hướng đánh giá việc thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và nghiên cứu, đề xuất sửa đổi một số điều của Luật cho phù hợp với tình hình, yêu cầu từ thực tiễn (như nghiên cứu mở rộng một số đối tượng được trợ giúp pháp lý...); xây dựng Đề án phát triển trợ giúp pháp lý giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn đến năm 2045. Có định hướng phát triển, tạo cơ chế đối với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước ở địa phương tương xứng với vị trí là một đơn vị sự nghiệp trọng điểm, nòng cốt cung cấp dịch vụ công thiết yếu của ngành tư pháp. Nâng cao chất lượng và xác định chức danh Trợ giúp viên pháp lý là chức danh tư pháp (có thể nghiên cứu về việc đổi tên thành luật sư công/luật sư trợ giúp pháp lý được Nhà nước trả lương để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà Nước).
- Triển khai hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi... tạo sự đồng bộ trong thực hiện chính sách.
- Triển khai thực hiện cơ chế người thực hiện TGPL trực ở trụ sở hoặc trực qua điện thoại tại một số cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, nhà tạm giam, tạm giữ, tòa án) giúp có cơ chế để người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận sớm với TGPL, đặc biệt là ở những địa phương có tỷ lệ người thuộc diện TGPL cao, điều kiện cơ sở vật chất của các cơ quan tiến hành tố tụng bảo đảm, có nguồn nhân lực TGPL từ đó góp phần bảo đảm đáp ứng được nhu cầu TGPL của người dân một cách nhanh chóng và kịp thời nhất.
- Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về TGPL của người dân thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực hoặc các hình thức chia sẻ kinh nghiệm…
- Có phương thức truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; có quy định khuyến khích, vinh danh, động viên tổ chức, cá nhân tham gia, thực hiện TGPL đóng góp vào hoạt động TGPL, đa dạng hóa việc cung cấp dịch vụ TGPL....
- Vận hành, khai thác, sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu về trợ giúp pháp lý, Cổng thông tin điện tử trợ giúp pháp lý; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin theo hướng số hóa cơ sở dữ liệu về trợ giúp pháp lý để chia sẻ, kết nối, tích hợp dữ liệu người thuộc diện được TGPL với cơ sở dữ liệu quốc gia và các bộ, ngành có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả quản lý điều hành, hỗ trợ người dân yêu cầu TGPL trực tuyến, đơn giản hóa và giảm tải thủ tục hành chính trong hoạt động TGPL, tiết kiệm chi phí đi lại, chứng minh thuộc diện đối tượng... Tăng cường phối hợp, kết nối với Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc áp dụng công nghệ điện tử, chuyển đổi số đối với việc thực hiện TGPL trong tố tụng. Bảo đảm cơ sở vật chất và công nghệ tương thích kịp thời kết nối với Tòa án để thực hiện tranh tụng trực tuyến../.
 
 

[1] Số liệu tính đến 31/12/2014
[2] Số liệu tính đến 31/12/2021
[3] Ước tính số lượng người thuộc diện TGPL ở Việt Nam có khoảng 45% dân số, dự tính sẽ còn tăng theo quy định về chuẩn hộ nghèo và hộ cận nghèo giai đoạn mới của Chính phủ

Xem thêm »