Tình hình thực hiện Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và pháp luật Việt Nam về các quyền dân sự, chính trị trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý tại Việt Nam

29/09/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 hay còn gọi là Công ước ICCPR là một trong những điều ước quốc tế quan trọng nhất về quyền con người, với sự tham gia động đảo của 173 quốc gia thành viên. Việt Nam trở thành thành viên Liên hợp quốc vào năm 1977 và gia nhập Công ước ICCPR vào năm 1982.

Trên bình diện quốc tế, quyền con người luôn được tôn trọng đề cao thể hiện ở hệ thống điều ước quốc tế về quyền con người rất đa dạng từ kinh tế, văn hóa, xã hội đến dân sự, chính trị và cả với những đối tượng khác như người yếu thế. Trong đó, Công ước ICCPR là hạt nhân vì nội dung Công ước bao trùm các quyền gắn liền với bất kỳ cá nhân nào từ khi sinh ra đến hết cuộc đời. Các quyền đó là những giá trị cốt lõi, tối thiểu như quyền được sống trong hòa bình, an ninh an toàn; quyền tham gia vào đời sống dân sự, chính trị không bị phân biệt, đối xử; quyền tự do biểu đạt quan điểm; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền riêng tư; quyền được xét xử công bằng…
Từ khi gia nhập Công ước ICCPR đến nay, Việt Nam đã xây dựng, nộp Báo cáo quốc gia về tình hình thực thi Công ước ICCPR lần lượt vào các năm 1989, 2001 và 2017. Việc nộp Báo cáo quốc gia đã thể hiện thiện chí của Việt Nam trong việc đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế. Ngày 28/3/2019, trên cơ sở nội dung đối thoại tại Phiên bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước ICCPR, Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc đã đưa ra Bản khuyến nghị đối với Báo cáo của Việt Nam, trong đó đánh giá thực trạng và khuyến nghị Việt Nam cần đảm bảo tốt hơn các quyền dân sự và chính trị đối với 25 nhóm vấn đề. Với vai trò là cơ quan đầu mối thực thi Công ước ICCPR của Chính phủ Việt Nam, Bộ Tư pháp đã chủ động phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung khuyến nghị, từ đó tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cấp quốc gia về tăng cường thực hiện Công ước ICCPR và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Ngày 29/6/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1252/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc (giữa), Trưởng đoàn công tác liên ngành của Việt Nam phát biểu tại phiên họp xem xét Báo cáo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam về thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, ngày 11/3/2018 tại Geneva (Thụy Sĩ). Ảnh: Hoàng Hoa/TTXVN
 
II. Tình hình thực hiện của Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và pháp luật Việt Nam về các quyền dân sự, chính trị trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý tại Việt Nam
1. Về tình hình thực hiện các khuyến nghị trong lĩnh vực trợ giúp pháp (TGPL) lý tại Việt Nam trong các năm vừa qua:
a. Tỷ lệ người bị buộc tội phải đối mặt với hình thức phạt tử hình được tiếp cận với luật sư hoặc TGPL
Theo quy định tại Điều 7 của Luật TGPL năm 2017, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo thuộc diện người được TGPL. Ngoài ra, người bị buộc tội là người nghèo, người có công với cách mạng, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và người bị buộc tội; cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV trong các trường hợp khó khăn về tài chính (Điều kiện khó khăn về tài chính của người được trợ giúp pháp lý là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật). [1]Theo quy định tại khoản 1 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, các trường hợp chỉ định người bào chữa cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự: (a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; (b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Vì vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, người bị buộc tộitrong các vụ án là người thuộc diện được TGPL  được các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông tin, thông báo về quyền được TGPL và được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của Luật TGPL năm 2017. Qua báo cáo của địa phương, số vụ việc TGPL trong tố tụng của các địa phương đã ngày một tăng lên. Số liệu vụ việc tham gia tố tụng từ năm 2019 đến năm 2021 là 47.577 vụ việc (trong đó bào chữa được 29.861 vụ việc)/ tổng số 84.504 vụ việc (chiếm 56,3%). Theo báo cáo của 63 địa phương, trong năm 2021, tổng số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc trong năm 2021 là: 17.966 vụ việc (năm 2020: 16.168 vụ việc, tăng 11,12% so với năm 2020). Số vụ việc tham gia bào chữa cho người bị buộc tội ngày một tăng lên (năm 2019: 8.213 vụ việc, năm 2020: 9.827 vụ việc, năm 2021: 11.821 vụ việc) trong đó có người bị buộc tội phải đối mặt với hình thức phạt tử hình. Tuy nhiên, theo quy định tại Thông tư số 03/2019/TT-BTP ngày 20/3/2019 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp không có nội dung thống kê đối với người bị buộc tội phải đối mặt với hình thức phạt tử hình, do đó, Cục TGPL không có số liệu này.
b. Biện pháp cụ thể thực hiện để bảo vệ và phục hồi các nạn nhân của buôn bán người
 Luật TGPL 2017 quy định rõ nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính được TGPL. Theo quy định của Luật TGPL, nạn nhân được tư vấn, được người thực hiện TGPL tham gia tố tụng trước tòa án và cơ quan tài phán khác, được đại diện ngoài tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngoài ra, theo pháp luật phòng, chống mua bán người, nạn nhân còn được hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu và nhu cầu đi lại, hỗ trợ y tế, hỗ trợ tâm lý, hỗ trợ văn hóa học nghề, trợ cấp khó khăn ban đầu, hỗ trợ vay vốn. Do đó, người thực hiện TGPL thông báo, thông tin cho nạn nhân biết về các quyền của họ trong đó có quyền được TGPL, hỗ trợ, bảo vệ và hướng dẫn giới thiệu họ với các cơ quan, tổ chức có liên quan.
 Các Trung tâm TGPL nhà nước tập trung vào việc thực hiện các vụ việc TGPL theo các hình thức tư vấn, tham gia tố tụng trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính… cho người được TGPL là nạn nhân bị mua bán. Theo số liệu thống kê của các địa phương trong cả nước thì từ năm 2019 đến 2021 đã có 25 vụ việc TGPL cho nạn nhân bị mua bán, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em được các Trung tâm TGPL tỉnh/thành phố TGPL miễn phí. Trong đó, 96% là vụ việc tham gia tố tụng.
c. Việc được trợ giúp pháp lý miễn phí trong vòng 24 giờ kể từ khi bắt đầu bị tạm giữ
 Khoản 1 Điều 6 của Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp về một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL quy định các trường hợp thụ lý ngay như sau:
“1. Các trường hợp thụ lý ngay theo quy định tại khoản 4 Điều 30 của Luật TGPL bao gồm:
a) Thời hiệu khởi kiện của vụ việc còn dưới 05 ngày làm việc;
b) Ngày xét xử theo quyết định đưa vụ án ra xét xử còn dưới 05 ngày làm việc;
c) Các trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các trường hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 31 của Luật TGPL mà cơ quan tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm;
d) Các trường hợp để tránh gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL do người đứng đầu tổ chức thực hiện TGPL quyết định.”
Điểm a khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng quy định như sau: “Đối với người bị bắt, người bị tạm giữ, ngoài việc thông báo bằng văn bản thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo ngay bằng điện thoại cho Trung tâm, Chi nhánh”.
Quy định pháp luật hiện hành thì người bị bắt, tạm giam, tạm giữ được thông báo về quyền bào chữa, bảo vệ. Nếu thuộc diện được TGPL thì được TGPL miễn phí theo quy định của pháp luật TGPL.
Trong năm 2021, tổng số người bị buộc tội, người bị hại, đương sự trong vụ án, vụ việc do các cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý tiếp nhận là 317.541 người, trong đó người thuộc diện được TGPL là 26.686 người (chiếm 8,5%) và tổng số lượt người được TGPL (người có yêu cầu TGPL) là 16.774 người (62,1%). Cụ thể:
- Cơ quan công an thụ lý tiếp nhận là 71.271 người, trong đó người thuộc diện được TGPL là 13.172 người và tổng số lượt người được TGPL là 11.430 người.
- Viện kiểm sát nhân dân thụ lý tiếp nhận là 75.600 người, trong đó người thuộc diện được TGPL là 3.900 người và tổng số lượt người được TGPL là 1.229 người.
- Tòa án nhân dân thụ lý tiếp nhận là 170.497 người, trong đó người thuộc diện được TGPL là 9.614 người và tổng số lượt người được TGPL là 3.879 người.
2. Về tình hình thực hiện các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 1252/QĐ-TTg như sau:
Ngày 26/9/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1252/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc. Qua 02 năm triển khai thực hiện (01/01/2019 đến 31/12/2021), các Trung tâm TGPL Nhà nước đã thực hiện TGPL được 84.504 vụ việc cho 84.504 lượt người được TGPL. Số vụ việc TGPL cho người có công với cách mạng: 10.709 vụ việc, người thuộc hộ nghèo: 12.183 vụ việc, người dân tộc thiểu số: 26.065 vụ việc, đối tượng vừa là người thuộc hộ nghèo vừa là dân tộc thiểu số: 727 vụ việc,  trẻ em: 9.226 vụ việc, người bị buộc tội từ 16 đến 18 tuổi: 10.210 vụ việc,  người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo: 4.187 vụ việc, người khuyết tật có khó khăn về tài chính: 5.218 vụ việc, người cao tuổi có khó khăn về tài chính: 3.840 vụ việc và đối tượng khác có khó khăn về tài chính: 2.139 vụ việc. Kết quả này góp phần bảo đảm quyền được tiếp cận công lý nói chung và quyền được TGPL nói riêng của người dân. Hoạt động TGPL đã giúp người dân tháo gỡ được các vướng mắc pháp luật trong đó có lĩnh vực như đất đai, hôn nhân và gia đình, dân sự, hình sự..., bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đối tượng yếu thế trong xã hội, góp phần giảm khiếu kiện vượt cấp, ổn định trật tự và an toàn xã hội.
Hầu hết các vụ việc được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên. Cùng với việc tăng số lượng vụ việc TGPL trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính… thì chất lượng dịch vụ TGPL ngày càng nâng lên rõ rệt. Nhiều vụ việc tham gia tố tụng do trợ giúp viên pháp lý thực hiện đạt hiệu quả, được đánh giá đạt chất lượng tốt, nhiều vụ việc thành công hiệu quả. Theo số liệu thống kê từ năm 2019 đến năm 2021, 63 Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện 13.857 vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả (trợ giúp viên pháp lý thực hiện: 11.626 vụ việc (chiếm 84%) và Luật sư thực hiện: 2.231 vụ việc (chiếm 16%)). Hiện tại, trên toàn quốc có 63 Trung tâm TGPL của Nhà nước tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, 40 tổ chức ký hợp đồng với Sở Tư pháp (30 tổ chức hành nghề luật sư, 10 tổ chức tư vấn pháp luật), 180 tổ chức đăng ký tham gia TGPL (146 tổ chức hành nghề luật sư, 34 tổ chức tư vấn pháp luật). Theo số liệu thống kê của các địa phương đến hết 31/12/2021, toàn quốc có 666 Trợ giúp viên pháp lý, 663 luật sư và 38 cộng tác viên TGPL ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL nhà nước.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ người thực hiện TGPL, trong giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2021, Cục TGPL đã xây dựng tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ TGPL và tổ chức 42 lớp tập huấn kỹ năng thực hiện TGPL cho các đối tượng được TGPL trong đó có đối tượng đặc thù (trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người...). Các lớp tập huấn góp phần nâng cao năng lực cho người thực hiện TGPL, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL cho các đối tượng yếu thế.
Như vậy có thể thấy rằng, việc thực thi các nội dung trong Quyết định số 1252/QĐ-TTg tại Việt Nam và triển khai khuyến nghị về TGPL theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý góp phần nâng cao sự hưởng thụ của người dân về các quyền dân sự và chính trị phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và điều kiện kinh tế - xã hội; bảo đảm các yêu cầu đối ngoại, đối nội, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội./.
Nguồn:
1. Công ước của Liên hợp quốc về các quyền dân sự và chính trị năm 1966.
2. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.
3. Những nội dung cơ bản của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Bộ Tư pháp.
4. Báo cáo số liệu của Cục Trợ giúp pháp lý năm 2019 – 2021.
 
                                                              Nguyễn Thu Hiền - Phòng Chính sách & quản lý nghiệp vụ TGPL
 
 

[1] Điều 2 Nghị định 144/2017/NĐ-CP  ngày 15/12/2017 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý

Xem thêm »