Cần tiếp tục phát huy vai trò trợ giúp pháp lý trong các chính sách an sinh xã hội

22/01/2025
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

“Phát huy vai trò trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội” – Đây là yêu cầu của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp (theo Thông báo số 108-TB/TPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng).

Để triển khai nội dung nay cần có sự nghiên cứu về lý luận, thực tiễn để đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả nghiên cứu về quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho nhóm người yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội; kết quả tích cực trong việc cung cấp dịch vụ này và vai trò trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm phát huy trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội trong thời gian tới.
Mới đây, để triển khai Chỉ thị số 02/CT-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về tăng cường các biện pháp bảo đảm đón Tết Nguyên đán Ất Tỵ năm 2025 vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, ngày 28/12/2024, Cục trưởng Cục TGPL đã có Công văn số 887 /CTGPL-TTTTDL gửi Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị phối hợp chỉ đạo Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện các nhiệm vụ về công tác trợ giúp pháp lý tại mục 11 Chỉ thị số 02/CT-BTP, theo đó cần: Tập trung thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý liên quan đến chế độ, chính sách, nhất là các chính sách an sinh xã hội; kịp thời nắm bắt, đánh giá nhu cầu trợ giúp pháp lý thông qua nhiều phương thức, cách thức; tăng cường thực hiện dịch vụ công trực tuyến đối với thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý; triển khai hoặc lồng ghép thực hiện hiệu quả nội dung trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia; triển khai thực hiện hiệu quả việc trực trợ giúp pháp lý tại Tòa án, trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự 24/24 giờ; tiếp tục tham mưu, phối hợp với các cơ quan nhà nước tại địa phương, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân cấp xã giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý, giới thiệu đến Trung tâm trợ giúp pháp lý.
  1. Quyền được trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội
Trợ giúp pháp lý mang giá trị cốt lõi về bảo vệ quyền con người, của Nhà nước pháp quyền và bản chất ưu việt của chế độ, đồng thời là công cụ để Nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế tại Việt Nam. Hiện nay, dịch vụ hỗ trợ thông tin, thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý đã được xác định là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu của ngành Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý là nhiệm vụ Chính phủ giao cho ngành tư pháp thực hiện từ năm 1997 (theo Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ). Theo đó, Bộ Tư pháp là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý (TGPL). Cục TGPL là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, được thành lập năm 1997 (là Cục thành lập đầu tiên trong số các Cục thuộc Bộ hiện nay và là Cục thành lập  thứ hai sau Cục Thi hành án dân sự, nay thành Tổng Cục Thi hành án dân sự được thành lập vào năm 1993) có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và tổ chức thi hành pháp luật về TGPL theo quy định của pháp luật.
Quyền được trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế trong xã hội là một vấn đề được quan tâm trong quá trình xây dựng, tổ chức thi hành luật TGPL. Một nguyên tắc cơ bản được hầu hết các nước trên thế giới thừa nhận rằng trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước phải có trách nhiệm giúp đỡ những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương trong trường hợp họ không có đủ khả năng tài chính thuê luật sư khi họ phải đối diện với pháp luật để bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Việc xác định các diện người được trợ giúp pháp lý nêu trên dựa trên những nguyên tắc cụ thể, phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật hiện hành và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; có tính kế thừa từ giai đoạn trước. Theo đó, việc quy định người được trợ giúp pháp lý cần dựa trên các nguyên tắc mang tính đặc thù của Việt Nam về chính sách của Đảng và Nhà nước về đền ơn đáp nghĩa đối với người có công với cách mạng, chính sách dân tộc, chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi bị buộc tội, chính sách chăm sóc và bảo vệ trẻ em và bản chất của hoạt động trợ giúp pháp lý là trợ giúp đối với một số nhóm đối tượng yếu thế nhất trong xã hội có khó khăn về tài chính, không đủ khả năng chi trả thù lao cho dịch vụ pháp lý.
Đối tượng thụ hưởng theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017 là 14 nhóm đối tượng, chiếm khoảng 45% dân số[1] và vừa được mở rộng khi Quốc hội thông qua Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), Luật Tư pháp người chưa thành niên tại kỳ họp thứ 8, trong đó có quy định sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng mở rộng thêm nhiều diện người được trợ giúp pháp lý miễn phí, cụ thể như sau:
- Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người được trợ giúp pháp lý gồm: Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 đến 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người có khó khăn tài chính thuộc các nhóm: i) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; ii) Người nhiễm chất độc da cam; iii) người cao tuổi; iv) người khuyết tật; v) người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; vi) nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; vii) nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; viii) người nhiễm HIV. Theo Điều 2 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý thì điều kiện có khó khăn về tài chính là người thuộc hộ cận nghèo hoặc người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định.
- Theo Luật Tư pháp người chưa thành niên (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026), người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân[2] có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí.
- Theo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025), nạn nhân của hành vi mua bán người, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân có quyền được TGPL miễn phí[3].
Việc sửa đổi Luật TGPL năm 2017, mở rộng người thuộc diện được TGPL trong các dự án Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng chống mua bán người (sửa đổi) nhằm đáp ứng thực tiễn nhu cầu TGPL của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, khắc phục bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Luật TGPL 2017 cũng như có ý nghĩa quan trọng trong triển khai thực hiện nhiệm vụ mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước được giao tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm “Phát huy vai trò của trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội”[4].
2. Một số kết quả và vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội
Là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu của ngành Tư pháp[5], trong thời gian qua các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã nỗ lực, tích cực trong cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí trong các vụ việc cụ thể cho người nghèo, người có công với cách mạng, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và các nhóm người yếu thế, dễ tổn thương khác trong xã hội, qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Sau hơn 27 năm thành lập, đặc biệt là từ khi đổi mới công tác trợ giúp pháp lý và sau hơn 6 năm triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến nay, hệ thống trợ giúp pháp lý ở Trung ương và địa phương đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như: Thể chế về trợ giúp pháp lý ngày càng được hoàn thiện; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được sắp xếp, tăng cường; hoạt động trợ giúp pháp lý ngày càng đi vào nề nếp, tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện vụ việc, nhất là vụ việc tham gia tố tụng; chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý. Năng lực của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã dần được nâng cao và trở thành đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Truyền thông về trợ giúp pháp lý ngày càng hiệu quả với nhiều hình thức đa dạng; ứng dụng công nghệ thông tin bước đầu để nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện trợ giúp pháp lý. Hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trợ giúp pháp lý được tăng cường, đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp và vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
Đến nay, trên toàn quốc có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và 96 Chi nhánh trợ giúp pháp lý (ở mỗi tỉnh, thành phố có 01 Trung tâm và có thể có Chi nhánh)[6], với 707 trợ giúp viên pháp lý/trên tổng số 1.240 viên chức, người làm việc tại Trung tâm. Đội ngũ trợ giúp pháp lý đã có tiêu chuẩn, trình độ tương đương với Luật sư. Hiện nay trợ giúp viên pháp lý đầy đủ 3 hạng (hạng I, II, III), đây là chức danh duy nhất thuộc ngành tư pháp ở địa phương có chức danh nghề nghiệp hạng I. Trên thực tế, năng lực của đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã dần được nâng cao và trở thành đội ngũ nòng cốt cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân; số lượng vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý tăng hằng năm. Ghi nhận những cố gắng, nỗ lực đó, trong thời gian qua đã có những trợ giúp viên pháp lý được tôn vinh gương sáng Ngành Tư pháp.
Số lượng vụ việc cung cấp cho người dân ngày càng tăng, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của người dân yếu thế trong xã hội. Từ 1997 – nay, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã thực hiện được hơn 2,3 triệu vụ việc cho người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các diện người được trợ giúp pháp lý khác theo quy định. Triển khai Luật Trợ giúp pháp lý 2017, các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác TGPL là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý nói chung và vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng nói riêng liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước. Riêng năm 2024, các Trung tâm thực hiện 63.361 vụ việc, trong đó thụ lý mới 39.641 vụ việc (chủ yếu là vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với 32.748 vụ). Số vụ việc kết thúc trong năm là 37.343 vụ việc, trong đó có 30.538 vụ việc tham gia tố tụng. Với số liệu này, số lượng vụ việc tham gia tố tụng trong năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm 2023 và đạt mốc cao nhất từ trước đến nay.
Thực hiện việc quản lý, theo dõi đối với hoạt động thẩm định chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của các địa phương, đã có 45 Sở Tư pháp thực hiện đánh giá chất lượng vụ việc được 2.692 vụ việc; 62 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thực hiện thẩm định chất lượng được 17.053 vụ việc, trong đó tất cả các vụ việc thẩm định, đánh giá chất lượng đều đạt chất lượng trở lên, không có vụ việc nào không đạt chất lượng. Số vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công là: 9.592 vụ việc (tăng 7% so với cùng kỳ năm 2023)… Từ số liệu trên cho thấy, người được TGPL nói riêng được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp kịp thời, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận công lý và công bằng trong xét xử.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua ở Trung ương và địa phương đã tích cực triển khai nội dung trợ giúp pháp lý các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 về giảm nghèo, phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, nông thôn mới[7] và về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[8].
Các hoạt động trợ giúp pháp lý đã được trung ương và địa phương triển khai đồng bộ, toàn diện. Kết quả thực hiện nội dung trợ giúp pháp lý trong các chương trình này đã giúp người dân, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, người dân ở vùng nông thôn thuộc diện được trợ giúp pháp lý tiếp cận và thụ hưởng trợ giúp pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, vướng mắc pháp luật. Các hoạt động tăng cường năng lực cho người thực hiện trợ giúp pháp lý đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý. Nhiều vụ việc do người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện có kết quả tích cực, đạt chất lượng; quan điểm bào chữa, bảo vệ cho người được trợ giúp pháp lý của trợ giúp viên pháp lý, luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận, được Tòa án tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh, thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát, thậm chí được tuyên vô tội hoặc trong các vụ án dân sự người thực hiện trợ giúp pháp lý giúp cho người được trợ giúp pháp lý bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các vụ tranh chấp dân sự nhiều vụ việc được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện lấy lại được đất, được tài sản của mình. Các vụ việc trợ giúp pháp lý được thẩm định, đánh giá chất lượng đều đạt chất lượng trở lên.
Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV đã thông qua thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa (Nghị quyết số 162/2024/QH15) và Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phòng, chống ma tuý (Nghị quyết số 163/2024/QH15), trong đó có nội dung về trợ giúp pháp lý.
Với những kết quả đạt được của công tác trợ giúp pháp lý trong thời gian qua, nhất là thông qua số lượng và chất lượng các vụ việc tham gia tố tụng được cung cấp cho người nghèo, người có công với cách mạng và đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội đã thể hiện rõ nét chức năng xã hội của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện chính sách an sinh xã hội, phát triển sinh kế, giảm nghèo bền vững…
3. Các giải pháp tiếp tục phát huy vai trò trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội
3.1. Yêu cầu
Hiện nay, trợ giúp pháp lý được xác định là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu. Nhiều văn bản của Đảng và Nhà nước có đề cập đến các nội dung có liên quan đến công tác trợ giúp pháp lý và trợ giúp pháp lý trong các chính sách an sinh xã hội như:
- Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tại Phần XIII Báo cáo chính trị và Mục 10 Phần IV báo cáo phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025 đã nêu nhiệm vụ nâng cao chất lượng dịch vụ công; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng, trong đó tổ chức trợ giúp pháp lý tham gia vào quá trình tố tụng, người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên trong quá trình tranh tụng.
- Tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập và Kết luận số 62-KL/TW ngày 02/10/2023 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW có nội dung: Tiếp tục tăng ngân sách nhà nước và đổi mới việc phân bổ theo hướng tập trung cho dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, thực hiện nhiệm vụ chính trị,…Bảo đảm xuyên suốt việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, nhất là dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu cho Nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo; tạo thuận lợi cho Nhân dân trong tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công;…”.
- Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới vừa được ký ban hành trong đó lĩnh vực trợ giúp pháp lý có ở 02 nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW (1) Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống trợ giúp pháp lý để người dân dễ tiếp cận pháp luật (2) “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”. Đây là các nhiệm vụ lớn, mới, quan trọng mà Nghị quyết đã giao phải triển khai thực hiện nội dung về trợ giúp pháp lý.
- Kết luận của Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp (Thông báo số 108-TB/TPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng) có yêu cầu “Phát huy vai trò của trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội”.
- Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 09/5/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới yêu cầu: “kết nối, đẩy mạnh các hoạt động trợ giúp pháp lý trong các chương trình, chính sách về an sinh xã hội”.
- Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV về tổ chức phiên tòa trực tuyến và để triển khai Nghị quyết, các ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến, trong đó có quy định Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tham gia phiên tòa trực tuyến với vai trò là một điểm cầu thành phần.
Cùng với đó, các quy định về trợ giúp pháp lý cũng đã được đồng bộ hóa trong các Bộ luật, luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phòng, chống mua bán người...
3.2. Một số giải pháp
Để triển khai những chỉ đạo, yêu cầu trên và đạt được mục tiêu của công tác trợ giúp pháp lý là bước vào kỷ nguyên vươn mình, trở thành nước có hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển trong khu vực giai đoạn 2025 - 2030 và nước có hoạt động trợ giúp pháp lý tiên tiến trong khu vực và trên thế giới giai đoạn 2031 – 2045, cần tiếp tục triển khai hiệu quả một số giải pháp phát huy vai trò trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội như sau:
a) Tiếp tục hoàn thiện thể chế về diện người được trợ giúp pháp lý theo hướng mở rộng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Trong thời gian tới, cần tiếp tục, nghiên cứu đề nghị sửa đổi Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, Luật Người cao tuổi, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) theo hướng bổ sung quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho người có công với cách mạng; người nhiễm HIV, người cao tuổi có khó khăn về tài chính theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Đề nghị nghiên cứu, đề xuất Luật Người khuyết tật bổ sung quyền của người khuyết tật theo hướng mọi người khuyết tật trong tố tụng tư pháp, không phân biệt người có khó khăn về tài chính hay không đều có quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí. Bởi vì, người khuyết tật họ đã bị khiếm khuyết và họ gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, do đó khi mà vướng phải tố tụng hình sự trở thành nạn nhân hoặc người bị buộc tội, họ rất cần được sự giúp đỡ pháp luật miễn phí từ Nhà nước. Trước mắt, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng mở rộng điều kiện có khó khăn về tài chính của nhóm người quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý, cụ thể có thể nghiên cứu theo hướng, sửa đổi Điều 2 quy định về điều kiện có khó khăn về tài chính là người thuộc hộ cận nghèo, người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, người thuộc hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình làm nông nghiệp, diêm nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, người lao động có thu nhập thấp, người có khó khăn đột xuất… Việc mở rộng thêm điều kiện có khó khăn về tài chính nhằm mở rộng quyền được trợ giúp pháp lý cho nhóm người thuộc quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý (người cao tuổi, người khuyết tật, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình…. có khó khăn về tài chính).
b) Tổ chức triển khai hiệu quả nội dung trợ giúp pháp lý trong 5 Chương trình mục tiêu quốc gia, gồm Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và hai Chương trình mục tiêu mới được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư là Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ma túy và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa. Bên cạnh đó, tổ chức triển khai các quy định về diện người được trợ giúp pháp lý và các nội dung trợ giúp pháp lý trong các Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua.
c) Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cần tiếp tục tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng, bảo đảm thuận lợi cho người dân tiếp cận và sử dụng dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu trợ giúp pháp lý xuyên suốt, kịp thời, hiệu quả. Tăng cường chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý thông qua việc tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý; xây dựng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp, có đầy đủ kiến thức và kỹ năng bảo đảm cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý có chất lượng, nhất là trong tham gia tố tụng. Bảo đảm đủ số lượng Trợ giúp viên pháp lý phù hợp với vị trí việc làm đã được phê duyệt và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý; nghiên cứu cơ chế thu hút mạnh mẽ tổ chức, cá nhân, nhất là luật sư có nhiều kinh nghiệm, năng lực tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý.
d) Nâng cao khả năng tiếp cận, sử dụng quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí cho người dân thông qua việc đa dạng hoá các cách thức và nâng cao chất lượng truyền thông về trợ giúp pháp lý, kết hợp các cách thức truyền thông truyền thống với các cách thức truyền thông hiện đại trên mạng xã hội, các diễn đàn trực tuyến, mạng viễn thông, sóng phát thanh, truyền hình... bằng tiếng Việt hoặc dịch sang các tiếng dân tộc phổ biến, bảo đảm hiệu quả, phù hợp với từng vùng, miền, từng nhóm đối tượng yếu thế (như trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số…); nâng cao kiến thức, hiểu biết về trợ giúp pháp lý của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý.
đ) Bên cạnh đó, cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, tạo sự đồng bộ với các các lĩnh vực an sinh xã hội khác; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, phấn đấu 100% thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý được xác định là dịch vụ công trực tuyến tại tất cả các địa phương và tích hợp các dịch vụ công này trên Cổng dịch vụ công quốc gia; tăng cường kết nối, chia sẻ với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu của các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các Bộ, ngành, cơ quan có liên, giúp người dân tiếp cận và được trợ giúp pháp lý sớm khi có nhu cầu…/.                  
Ngân Giang
 

[1] Báo cáo đánh giá tác động của Dự án Luật TGPL (sửa đổi), Hồ sơ trình Quốc hội 30/9/2016.
[2] Theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị buộc tội; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ việc hình sự có khó khăn về tài chính được trợ giúp pháp lý miễn phí
[3] Theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017, nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính (bao gồm nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người thuộc hộ cận nghèo hoặc nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định.
[4] Thông báo số 108-TB/TPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng
[5] Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ
[6] Thống kê từ báo cáo của các Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
[7] theo Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ
[8] tại Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 09/5/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 24/11/2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Xem thêm »