Thực trạng tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý ở Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý

25/05/2022
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy định cụ thể, thiết lập về quyền được đối xử một cách công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật. Theo đó, mọi công dân, nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật.

Điều này được nêu rõ trong Điều 7 Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948) “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này” (Điều 7). Điều 16 Hiến pháp năm 2013 cũng đã ghi nhận và quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật tại Chương II về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp). Như vậy, khi tham gia tố tụng, dù là người bị buộc tội hay bị hại, dù là nguyên đơn hay bị đơn, các quyền bình đẳng trước pháp luật và các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân của họ đều được đảm bảo.
Thế chế hóa những quy định trên, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, đảm bảo tranh tụng trong xét xử là một trong những quyền dân sự của công dân đã được pháp luật xác định thành một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự (TTDS). Những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý (người nghèo, người khuyết tật, trẻ em….) khi tham gia TTDS với tư cách là đương sự có thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ trợ giúp viên pháp lý bảo vệ (miễn phí).
Trợ giúp viên pháp lý là chức danh nghề nghiệp đặc thù có kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm để tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng, góp phần thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và hoà mình vào dòng chảy chung của xu thế toàn cầu hoá, vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật nói chung cũng như vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong TTDS là không thể thiếu được trong xã hội và ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong thời gian gần đây, số lượng vụ việc TTDS có sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự ngày một nhiều hơn. Với sự am hiểu pháp luật, với kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp, trợ giúp viên pháp lý đã góp phần không nhỏ vào việc làm sáng tỏ sự thật khách quan, giúp Tòa án giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự, bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong TTDS vẫn còn gặp khó khăn, bất cập như: một số quy định trong pháp luật TGPL và pháp luật TTDS chưa tạo điều kiện thuận lợi để trợ giúp viên pháp lý thực hiện tốt vai trò của mình; nhận thức về vai trò của trợ giúp viên pháp lý trong TTDS chưa thống nhất; chất lượng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý khi tham gia TTDS chưa đồng đều.
Bài viết này nhằm phân tích thực trạng tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý ở Việt Nam và một số giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý. Từ đó, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS.
1. Một số quy định về trợ giúp pháp lý và trợ giúp viên pháp lý trong Bộ luật TTDS                                        
Thứ nhất, Điều 9 Bộ luật TTDS quy định việc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý:  “Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. (khoản 3 Điều 9).
Thứ hai, Bộ luật TTDS quy định trách nhiệm của Thẩm phán khi được Chánh án phân công thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý (Khoản 6 Điều 48).
Thứ ba, Bộ luật TTDS tiếp tục ghi nhận Trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điểm b khoản 2 Điều 75).
2. Những kết quả đạt được của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động tham gia tố tụng dân sự
Thông qua hoạt động tham gia tố tụng dân sự, Trợ giúp viên pháp lý bảo đảm cho người được TGPL đều được tiếp cận, sử dụng pháp luật miễn phí trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Đồng thời, hoạt động tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý còn góp phần giúp giải quyết công việc công bằng và đúng pháp luật; góp phần tích cực thực hiện cải cách tư pháp, mở rộng điều kiện để thực hiện nguyên tắc tranh tụng trước toà, bảo đảm cho người nghèo, đối tượng chính sách, người già cô đơn, trẻ em không nơi nương tựa, dân tộc thiểu số,... không có điều kiện thuê luật sư cũng được bảo vệ, bào chữa quyền và lợi ích hợp pháp miễn phí cho họ trước các cơ quan tố tụng. Có thể khẳng định rằng, đây là một chức danh với đầy đủ vị trí pháp lý, quyền và nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL.
- Về số lượng Trợ giúp viên pháp lý: đến nay, đã có 669 Trợ giúp viên pháp lý, trung bình khoảng 11 trợ giúp viên pháp lý/Trung tâm. Số lượng trợ giúp viên pháp lý ngày càng được củng cố về số lượng, so với cùng kỳ năm 2020 tăng 35 người. Chất lượng người thực hiện TGPL được nâng cao, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng tại Tòa, ngày càng đáp ứng nhu cầu TGPL của người được TGPL.  
- Về số vụ việc tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý: 
Sau khi các bộ luật tố tụng được ban hành, và định hướng về tập trung thực hiện các vụ tố tụng theo chỉ đạo của Bộ Tư pháp, các Trợ giúp viên pháp lý đã đẩy mạnh hoạt động tham gia tố tụng, nhất là tham gia TTDS. Năm 2016, riêng trong lĩnh vực pháp luật dân sự, 63 Trung tâm TGPL đã tham gia tố tụng trong lĩnh vực dân sự là 2.509 vụ án. Trong đó, Trợ giúp viên pháp lý đã thực hiện 1.222 vụ việc (chiếm 48,7% tổng số vụ việc TGPL TTDS). Đây là kết quả đáng khích lệ của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý.
Sau khi Luật Trợ giúp pháp lý 2017 được ban hành và có hiệu lực, từ năm 2017 đến nay, hoạt động tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý càng được đẩy mạnh hơn nữa. Trong giai đoạn 2017 – 2021, các trợ giúp viên pháp lý đã thực hiện được 11.160 vụ TGPL tham gia tố tụng dân sự, chiếm 44% tổng số vụ việc TGPL tham gia tố tụng dân sự thực hiện trong kỳ báo cáo và chiếm 80,3% tổng số vụ việc TGPL tham gia tố tụng dân sự đã kết thúc trong kỳ báo cáo, số lượng vụ việc tham gia tố tụng dân sự của trợ giúp viên pháp lý tăng dần theo hàng năm. Nhiều vụ việc TGPL tham gia tố tụng thành công trong lĩnh vực dân sự đã gây được tiếng vang lớn, được truyền hình đưa tin.
Có thể thấy, sau khi BLTTDS 2015 và Luật Trợ giúp pháp lý 2017 được ban hành cùng với những biện pháp quản lý trong lĩnh vực TGPL, việc tham gia tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng của trợ giúp viên pháp lý được chú trọng, tăng cường về số lượng và chất lượng. Những năm gần đây, tỷ lệ trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL ngày càng tăng. Đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ngày càng trưởng thành và khẳng định được vai trò của mình trong việc thực hiện TGPL, nhất là tham gia tố tụng. Phần lớn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý đã đáp ứng yêu cầu công việc, tham gia ngày càng nhiều các vụ việc tranh tụng để đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ngày càng trưởng thành và khẳng định được vai trò của mình trong việc thực hiện TGPL, nhất là tham gia tố tụng. Đội ngũ trợ giúp viên pháp lý vẫn giữ vai trò nòng cốt trong công tác TGPL đặc biệt đối với khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện khó khăn thiếu luật sư trong thời điểm hiện nay.
Các vụ việc TGPL sau khi hoàn thành đều được Trung tâm tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng vụ việc. Ngoài ra, cơ quan tiến hành tố tụng đã tham gia kiểm tra, đánh giá chất lượng tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý; thường xuyên phản ánh, thông tin cho Trung tâm TGPL về chất lượng tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL để kịp thời có giải pháp khắc phục.
Đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý đã có nhiều cố gắng trong việc chủ động tìm tòi, nghiên cứu, học hỏi nâng cao trình độ, kỹ năng TGPL. Bởi vậy, các vụ việc tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý trong thời gian qua đều đã có sự đầu tư thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, đưa ra căn cứ pháp lý trong luận cứ  “có tình, có lý”, lập luận chặt chẽ mang tính thuyết phục, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.  Ngoài việc am hiểu kiến thức pháp luật và sử dụng các biện pháp phù hợp với quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người được TGPL, đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý khi thực hiện hoạt động TGPL đã thực sự tận tâm, nhiệt tình với công việc mang đậm tính chất nhân văn này.
Theo một kết quả khảo sát năm 2016 về vấn đề người dân lựa chọn người thực hiện TGPL, cho thấy, trong số những người thực hiện TGPL hiện nay thì trợ giúp viên pháp lý là người được người dân lựa chọn nhiều nhất để cung cấp dịch vụ TGPL. Có tới 67,2% số ý kiến của người dân thể hiện họ tin tưởng vào đội ngũ trợ giúp viên pháp lý. Đặc biệt, có tới 79,6% những người đã được TGPL khi được hỏi ý kiến đánh giá về dịch vụ TGPL thì trả lời họ tin tưởng vào đội ngũ trợ giúp viên pháp lý và tiếp tục lựa chọn trợ giúp viên pháp lý để giúp đỡ cho họ nếu họ tiếp tục gặp phải những vướng mắc pháp luật. Như vậy, kết quả khảo sát cho thấy, đội ngũ trợ giúp viên pháp lý đã ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của mình, đang trở thành lực lượng “nòng cốt” trong hoạt động TGPL, được người dân tin tưởng lựa chọn.
Nhìn chung, sự tham gia của trợ giúp viên pháp lý trong quá trình TTDS đã góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, giúp cho Hội đồng xét xử ban hành những bản án nghiêm minh, công bằng, dân chủ và đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân.
3. Những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý và nguyên nhân
Một là, chức danh “Trợ giúp viên pháp lý” theo quy định của pháp luật khó đi vào cuộc sống và không được phổ biến
Việc Luật quy định chức danh “Trợ giúp viên pháp lý” khiến cho thực tiễn áp dụng gặp khó khăn. Chức danh Trợ giúp viên pháp lý chưa được sử dụng rộng rãi và lâu dài trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như trong đời sống xã hội như chức danh “luật sư” nên một số người dân chưa hiểu biết về chức danh này. Trên thế giới, những nước sử dụng công chức Nhà nước hoặc được Nhà nước tuyển dụng vào làm việc tại tổ chức TGPL để thực hiện TGPL thì đều dùng thuật ngữ gắn với “luật sư” như Luật sư công, Luật sư nhà nước, Luật sư trợ giúp pháp lý. Vì vậy, mặc dù các biện pháp thông tin, truyền thông về TGPL đã được thực hiện tích cực trong thời gian qua, tuy nhiên, đến nay vẫn còn không ít người dân, thậm chí là người tiến hành tố tụng không biết đến chức danh Trợ giúp viên pháp lý. Thực tế cho thấy, người dân chưa biết và chưa hiểu rõ về Trợ giúp viên pháp lý mà quen với chức danh luật sư nên cũng khó khăn cho Trợ giúp viên pháp lý trong hoạt động nghề nghiệp. Điều này gây không ít khó khăn cho Trợ giúp viên pháp lý thực hiện vai trò của mình, nhất là khi giải thích cho người dân về chức năng của Trợ giúp viên pháp lý. Một vài địa phương, khi giải thích về chức danh Trợ giúp viên pháp lý thì đều phải giải thích cho người dân bằng chức danh “luật sư” và “miễn phí” để người dân hiểu.
Hai là, số lượng vụ việc tham gia TTDS của trợ giúp viên pháp lý trong thời gian qua còn thấp so với nhu cầu TGPL của người dân và số lượng án có liên quan đến người được TGPL phải giải quyết hàng năm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Số lượng vụ việc tham gia tố tụng dân sự do Trợ giúp viên thực hiện chiếm tỉ lệ chưa cao (chiếm khoảng 20%) trong tổng số các vụ việc TGPL do Trợ giúp viên pháp lý thực hiện.
Ba là, chất lượng vụ việc TGPL trong TTDS chưa đồng đều, chất lượng một số bản bảo vệ chưa cao:
Một số vụ việc Trợ giúp viên pháp lý chưa đánh giá đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, chưa đưa ra các luận cứ thuyết phục nên chất lượng vụ việc TGPL, kết quả việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL còn hạn chế. Việc đạt chất lượng chưa cao cũng do nhiều nguyên nhân. Về mặt khách quan, một là vụ việc dân sự là một trong những lĩnh vực phức tạp, liên quan đến nhiều mặt của đời sống; hai là, do tình trạng thiếu Trợ giúp viên pháp lý, mà mỗi Trợ giúp viên pháp lý lại chỉ có một vài thế mạnh trong việc thực hiện TGPL. Về mặt chủ quan, một vài Trợ giúp viên pháp lý chưa chủ động rèn luyện, đào sâu nghiên cứu, chưa có sự tập trung để thực hiện TGPL một cách tốt nhất.
 Bốn là, việc giải thích về quyền TGPL cho người dân của một số cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện nghiêm túc
Mặc dù các biện pháp thông tin, truyền thông về TGPL đã được thực hiện tích cực trong thời gian qua, nhưng do nhận thức và hiểu biết của người dân còn hạn chế, nhất là người nghèo, người dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa, miền núi là những người có hoàn cảnh đặc biệt hoặc có trình độ dân trí thấp, không biết chữ nên họ chưa hiểu, chưa nhận thức được về quyền TGPL của mình hoặc không biết nơi liên hệ hoặc chưa được giải thích hoặc được giải thích nhưng chưa đầy đủ, thấu đáo về quyền được TGPL và chưa sử dụng quyền được TGPL của mình. Mặc dù BLTTDS 2015 đã quy định trách nhiệm Thẩm phán phải giải thích quyền TGPL nhưng chưa có cơ chế giám sát nên hiệu quả chưa cao.
Năm là, việc gửi các văn bản tố tụng cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chưa được thực hiện đầy đủ, kịp thời:
BLTTDS quy định “Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan”. Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng (Thông tư liên tịch số 10) quy định về trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng  “Giao các văn bản tố tụng cho người thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng trong vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật về tố tụng”. Tuy nhiên, trên thực tế tại một số Tòa án việc thực hiện việc gửi văn bản tố tụng cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự còn chưa đầy đủ, kịp thời. Việc nhận các văn bản tố tụng để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL là rất cần thiết vì phần lớn người được TGPL có kiến thức pháp luật rất thấp nên việc tự bảo vệ quyền lợi của họ không đảm bảo, họ cũng không biết giá trị của những văn bản tố tụng này, thậm chí họ cũng không có khả năng kinh tế để gửi văn bản tố tụng đó cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Từ đó, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người được TGPL.
 Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trên:
Thứ nhất, nhận thức của một bộ phận người dân ở nông thôn còn chưa cao. Mặc dù nhiều biện pháp truyền thông đã được triển khai nhưng nhiều người vẫn không biết về quyền được trợ giúp pháp lý; có trường hợp biết về quyền được trợ giúp pháp lý của mình nhưng vẫn không chia sẻ, không yêu cầu trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, chức danh Trợ giúp viên pháp lý chưa quen thuộc như chức danh luật sư khi tham gia tố tụng, do đó, nhiều người dân nhất là tại vùng sâu, vùng xa, miền núi chưa biết về TGPL, còn dè dặt khi đến với Trung tâm TGPL.
Thứ hai, số lượng trợ giúp viên pháp lý thường xuyên biến động do luân chuyển hoặc nghỉ việc, trong đó có nhiều Trợ giúp viên pháp lý có trình độ chuyên môn vững vàng, nhiều kinh nghiệm. Đặc biệt, các địa phương ở miền núi vẫn còn tình trạng thiếu nguồn cán bộ có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để tạo nguồn Trợ giúp viên pháp lý.
Thứ ba, nhận thức của các cơ quan, ban ngành trong đó có cả một số cơ quan tiến hành tố tụng về hoạt động TGPL nói chung và về vị trí, vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong quá trình tố tụng chưa đầy đủ. Vì vậy, ở một số địa phương, cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm giải thích, thông báo, thông tin về TGPL theo đúng quy định của pháp luật.
4. Các giải pháp nâng cao hiệu quả tham gia tố tụng dân sự của Trợ giúp viên pháp lý
4.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

a. Đối với pháp luật trợ giúp pháp lý
Pháp luật TGPL cần đổi chức danh Trợ giúp viên pháp lý thành “Luật sư nhà nước” dựa trên những cơ sở sau đây:
Một là, hiện nay, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng chức danh luật sư (Luật sư công/Luật sư Nhà nước/Luật sư TGPL) để thực hiện TGPL như Anh và xứ Wales, Philippine, Hà Lan, Mỹ, Litva, Israel, Hàn Quốc, Canada, Bang New South Wales của Úc, Phần Lan... Họ cũng là công chức Nhà nước hoặc được Nhà nước tuyển dụng vào làm việc tại tổ chức TGPL để trực tiếp thực hiện TGPL, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và thực hiện vụ việc theo sự phân công của tổ chức TGPL. Phương thức hoạt động của luật sư thực hiện TGPL có thể khác nhau, tuy nhiên, đều cùng một chức danh là luật sư. Đổi tên thành luật sư thì cần có yếu tố “Nhà nước” trong tên gọi của chức danh này để phân biệt với đội ngũ luật sư hành nghề theo quy định Luật Luật sư. Đây là một trong những điểm đặc thù của TGPL, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đều ghi nhận đặc thù về “tính nhà nước” trong công tác TGPL và chức danh người thực hiện TGPL của nhà nước.
Hai là, thực tế trong quá trình triển khai Luật TGPL cho thấy người dân chưa biết hoặc chưa hiểu rõ về chức danh Trợ giúp viên pháp lý mà chỉ quen với chức danh Luật sư. Tâm lý của đa số người dân cho rằng nếu họ có điều kiện kinh tế thì họ sẽ lựa chọn thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi cho mình hơn.
Vì vậy, việc đổi chức danh từ Trợ giúp viên pháp lý thành luật sư tạo thuận lợi cho người dân, cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận diện chức năng, nhiệm vụ của đội ngũ này.
b. Đối với pháp luật tố tụng dân sự:
Pháp luật cần quy định về việc khi đương sự là người được TGPL yêu cầu có “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự” thì Tòa án đề nghị Trung tâm TGPL nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích cho họ.
Bộ luật TTDS 2015 đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Theo đó, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của Bộ luật TTDS. Đối tượng được TGPL là những người yếu thế như người nghèo, người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em, người khuyết tật có khó khăn về tài chính.... Những đối tượng này ít có khả năng tranh tụng trước tòa và không có khả năng tài chính thuê luật sư. Nếu như quyền trợ giúp pháp lý của họ không được bảo đảm, không có người bảo vệ quyền và lợi ích cho họ thì không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong TTDS, không đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của công dân. Mặc dù hiện nay đã có quy định trách nhiệm Thẩm phán phải giải thích quyền TGPL nhưng chưa có cơ chế giám sát nên hiệu quả chưa cao.
Vì vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho nhóm người yếu thế, đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS thì cần thiết quy định Tòa án đề nghị Trung tâm TGPL nhà nước cử Trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự là người được TGPL khi họ có nhu cầu.
4.2. Các giải pháp khác
a. Giải pháp nâng cao năng lực của đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý
Thứ nhất, hạn chế việc luân chuyển đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý, tăng cường đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ở những tỉnh thiếu luật sư, những tỉnh có nhu cầu TGPL. Để bảo đảm ổn định đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý cần quan tâm đến chế độ, chính sách cho Trợ giúp viên pháp lý tương đương như các chức danh tư pháp khác. Cần bổ sung kinh phí nghiệp vụ, đặc biệt là cần có khoản kinh phí riêng và hàng năm chi cho vụ việc TGPL.
Thứ hai, các Trung tâm TGPL cần tập trung vào nhiệm vụ chính thực hiện vụ việc TGPL, đặc biệt chú trọng các vụ việc tham gia tố tụng nói chung và tham gia TTDS nói riêng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý cần nhận thức được việc tham gia tố tụng là một trong những nhiệm vụ quan trọng và mang tính chuyên trách của mình, do đó đòi hỏi cần phải tập trung trí tuệ và thời gian để thực hiện.
Thứ ba, thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Trợ giúp viên pháp lý, đặc biệt là kỹ năng hành nghề trong quá trình tố tụng kết hợp với việc thực hành mẫu như các phiên tòa xét xử để vừa nâng cao trình độ kết hợp với việc bổ sung kinh nghiệm tố tụng thực tiễn cho đội ngũ này.
Thứ tư, bảo đảm tính độc lập của hệ thống TGPL và người thực hiện TGPL. Bảo đảm tính độc lập của hệ thống TGPL và người thực hiện TGPL, thiết lập hệ thống TGPL từ Trung ương đến địa phương bảo đảm tính khách quan, độc lập trong việc thực hiện TGPL.
Tại phiên họp lần thứ 60 ngày 20/12/2012, Đại hội đồng liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết số 67/187 về Các nguyên tắc và hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự. Theo đó, Đại hội đồng liên hợp quốc đã thừa nhận TGPL là một thành tố cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, khuyến nghị các quốc gia xem xét việc thành lập một cơ quan TGPL hoặc cơ quan có thẩm quyền để cung cấp, quản lý, điều phối và giám sát các dịch vụ TGPL. Cơ quan này cần được bảo đảm: (1) Không bị can thiệp về chính trị hoặc tư pháp trái pháp luật, độc lập với Chính phủ trong việc đưa ra quyết định liên quan đến TGPL và không phải chịu sự chỉ đạo, kiểm soát, đe dọa về tài chính của bất kỳ cá nhân hay cơ quan nào trong việc thực hiện chức năng của mình, bất kể cơ cấu hành chính của cơ quan đó như thế nào; (2) Có các quyền hạn cần thiết để cung cấp TGPL, không giới hạn việc bổ nhiệm nhân sự; chỉ định những người thực hiện TGPL cho các cá nhân; thiết lập các tiêu chuẩn và công nhận những người thực hiện TGPL, bao gồm cả yêu cầu đào tạo; giám sát người thực hiện TGPL và thành lập các cơ quan độc lập để giải quyết khiếu nại đối với họ; đánh giá nhu cầu TGPL trên toàn quốc…; (3) Xây dựng chiến lược dài hạn nhằm định hướng phát triển và sự bền vững của TGPL; (4) Báo cáo định kỳ cho cơ quan có trách nhiệm (theo Hướng dẫn 11) [22]. Vì vậy, việc đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức các cơ quan quản lý TGPL và tổ chức thực hiện TGPL là phù hợp với thông lệ quốc tế.
 b. Nâng cao nhận thức về vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng dân sự, tăng cường truyền thông về quyền được trợ giúp pháp lý
Việc nâng cao nhận thức về vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS là một trong những việc quan trọng để phát triển hoạt động của Trợ giúp viên pháp lý. Khi người dân, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đánh giá và coi trọng việc hành nghề của Trợ giúp viên pháp lý thì các quy định có liên quan tới người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp mới được thực hiện nghiêm túc, triệt để, góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, bảo đảm pháp chế. Người dân và người tiến hành tố tụng cần phải nhận biết vai trò của Trợ giúp viên pháp lý, đây là một hoạt động rất nhân văn vì người dân và cơ quan tiến hành tố tụng không hề mất chi phí cho Trợ giúp viên pháp lý mà lại được bảo vệ quyền và lợi ích được cho người dân, giúp được cơ quan tiến hành tố tụng làm sáng tỏ vụ án. Vì vậy cần tăng cường, kết hợp các biện pháp truyền thông như truyền thông truyền thống (trực tiếp về cơ sở, báo đài, tờ gấp…), truyền thông hiện đại (internet, điện thoại hotline,…) và hình thức đặc thù (hộp, bảng tin, tờ tin TGPL tại cơ quan tố tụng, chính quyền cơ sở…) để nâng cao nhận thức về quyền TGPL.
c. Tăng cường sự phối hợp của cơ quan tiến hành tố tụng
Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, cấp huyện, cần quan tâm tổ chức phối hợp có hiệu quả với tổ chức thực hiện TGPL và người thực hiện theo các nội dung đã được quy định tại Thông tư liên tịch số 10, kịp thời thông tin, giới thiệu những người thuộc diện TGPL đến Trung tâm hoặc chi nhánh để được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng đạt hiệu quả cao.
Các ngành Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Liên đoàn Luật sư Việt Nam chỉ đạo các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc quyền quản lý của mình phối hợp với Bộ Tư pháp trong công tác TGPL, nâng cao chất lượng tham gia tố tụng của đội ngũ người thực hiện TGPL.
Tóm lại: Qua việc nghiên cứu thực trạng Trợ giúp viên pháp lý tham gia TTDS ở Việt Nam trong thời gian qua, có thể thấy rằng Trợ giúp viên pháp lý đã đạt được những kết quả tích cực. Trong quá trình cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, vị trí, vai trò của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS càng ngày càng được khẳng định và nâng cao rõ rệt. Trợ giúp viên pháp lý đã có những đóng góp tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL; nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, phát huy dân chủ ở cơ sở, tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian gia, sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý trong TTDS chưa đạt được kết quả như mong muốn. Trên cơ sở nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và đã đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tham gia TTDS của Trợ giúp viên pháp lý trong thời gian tới.

Thanh Hà
 
 

Xem thêm »