Một số quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình (phần 11)

02/07/2020
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

D. KỸ NĂNG THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ

1. Các quy định của pháp luật dân sự
1.1. Bộ Luật dân sự, Luật hôn nhân gia đình
Bộ luật Dân sự quy định trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ và bồi thường ngoài hợp đồng bao gồm các quy định cụ thể về xác định thiệt hại và bồi thường trong một số trường hợp cụ thể. Việc bồi thường thiệt hại (cả vật chất và tinh thần) do BLGĐ gây ra thuộc một trong những trường hợp thuộc phạm vi bồi thường ngoài hợp đồng (Điều 678).

Trong lĩnh vực dân sự: Mọi cá nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. Khoản 1 Điều 3 BLDS 2015
Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật. Điều 32 Bộ luật dân sự
Điều 33 BLDS 2015
- Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền đối với bí mật đời tư  Điều 33 và 34 BLDS (Điều 34 – 38 BLDS 2015)
- Quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình. Điều 39 BLDS 2015
- Quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung Phần thứ hai BLDS 2015
- Quyền thừa kế Chương XXII Bộ luật dân sự 2015
- Quyền tự do đi lại, tự do cư trú Điều 44 Bộ luật dân sự
- Điều 20 Luật Hôn nhân và gia đình (nêu rõ quyền tự do lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng và trên cơ sở bình đẳng)
Trong hôn nhân gia đình:  - Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, thực hiện chế độ hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng; - Điều 36 Hiến pháp 2013
Điều 2 Luật HNGĐ 2014
Định nghĩa một số hành vi liên quan đến hôn nhân và gia đình liên quan đến yếu tố BLGĐ: “cưỡng ép kết hôn, ly hôn”, “cản trở kết hôn, ly hôn”, “yêu sách của cải trong kết hôn” Điều 3 Luật HNGĐ
- “Nhà nước có chính sách, biện pháp tạo điều kiện để công dân nam, nữ xác lập hôn nhân tự nguyện tiến bộ và gia đình thực hiện đầy đủ các chức năng của mình…” - Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình
- Các thủ tục hôn nhân ép buộc theo kiểu cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy, tệ tảo hôn, chế độ đa thê đều bị phê phán và nghiêm cấm. - Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình
- Quan hệ hôn nhân và gia đình thực hiện theo quy định của luật này được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; cấm kết hôn giả tạo; cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi … - Điều 5 Luật hôn nhân và gia đình
Trong hôn nhân gia đình: Nghiêm cấm các hành vi có liên quan đến yếu tố BLGĐ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình Điều 5 Luật HNGĐ
Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình; có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau; có nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Điều 17, 21, 22, 23 Luật HNGĐ
- Đối với tài sản chung của vợ chồng, người vợ có quyền ngang người chồng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung.
- Nếu chia tài sản khi còn chung sống, người vợ được hưởng phần ngang như người chồng.
- Vợ hoặc chồng có quyền có tài sản riêng.
- Điều 29, 38, 43 Luật hôn nhân và gia đình 2014
 
Khi quan hệ vợ chồng đã có mâu thuẫn sâu sắc không thể chung sống với nhau thì người vợ cũng như người chồng đều có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn.
Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của BLGĐ do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ; chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Ngược lại, trong trường hợp này nếu người vợ xin ly hôn thì tòa án vẫn giải quyết.
Điều 51, 59 Luật HNGĐ
- Khi tòa án giải quyết ly hôn, về nguyên tắc phải luôn chú trọng bảo vệ quyền lợi chính đáng của người vợ và các con chưa thành niên. Nếu người phụ nữ về làm dâu và chung sống cùng gia đình người chồng, thì khi ly hôn phải đảm bảo cho người vợ được trích chia một phần tài sản trong gia đình chồng, tương đương với công sức đóng góp của vợ vào việc duy trì, phát triển đời sống của gia đình. - Điều 59, 61 Luật hôn nhân và gia đình 2014
 
1.2. Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật Tố tụng Dân sự có những quy định về những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (Điều 28), trong đó quy định nhiều tranh chấp có thể có xuất phát từ BLGĐ như: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Tranh chấp về cấp dưỡng; Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật,…
Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng Dân sự cũng có những quy định liên quan đến việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người yếu thế trong đó có nạn nhân BLGĐ (Điều 114) như: Giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm; kê biên tài sản đang tranh chấp; cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định; cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình,….
Ngoài ra, một số quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 liên quan đến quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc như:
- Quyền khởi kiện vụ án của cơ quan, tổ chức, cá nhân (Điều 186 BLTTDS).
- Phạm vi khởi kiện (Điều 188 BLTTDS).
- Hình thức đơn khởi kiện (Điều 189 khoản 1, 2, 3 BLTTDS): Người khởi kiện phải làm đơn khởi kiện; Người khởi kiện phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện; Người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu.
- Nội dung đơn khởi kiện (Điều 189 khoản 4 BLTTDS).
- Gửi đơn khởi kiện đến Tòa án (Điều 190 BLTTDS): Nộp trực tiếp tại Tòa án; Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính; Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Trả lại đơn khởi kiện (Điều 192 BLTTDS);
- Khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện (Điều 194 BLTTDS);
- Thụ lý và thông báo về việc thụ lý vụ án (Điều 196 BLTTDS);
- Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn (Điều 200 BLTTDS);
- Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (Điều 201 BLTTDS);
- Nhập hoặc tách vụ án (Điều 42 BLTTDS);
- Hòa giải (Điều 205, 206, 207 BLTTDS)
- Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (Điều 208, 209, 210, 211 BLTTDS);
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (Điều 212, 213 BLTTDS);
- Tạm đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 214, 215, 216 BLTTDS).
- Đình chỉ giải quyết vụ án (Điều 217, 218 BLTTDS);
- Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 227, 228 BLTTDS);
- Thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng (Điều 238 BLTTDS);
- Thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu (Điều 243, 244, 245 BLTTDS);
- Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 248 BLTTDS);
- Hỏi tại phiên tòa (Điều 249 đến Điều 258 BLTTDS);
- Tạm ngừng phiên tòa (Điều 259 BLTTDS);
- Tranh luận tại phiên tòa (Điều 260, 261, 262, 263 BLTTDS)
- Người có quyền kháng cáo (Điều 271 BLTTDS)
- Thời hạn kháng cáo (Điều 273 BLTTDS)
- Đơn kháng cáo (Điều 274 BLTTDS)
- Kháng cáo quá hạn (Điều 275 BLTTDS)
- Kháng nghị của Viện kiểm sát (Điều 278, 279, 280 BLTTDS)
- Thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị (Điều 272, Điều 281 BLTTDS)
- Thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm (Điều 285 BLTTDS)
- Cung cấp tài liệu chứng cứ trong gia đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm (Điều 287 BLTTDS);
- Tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 288, 289 BLTTDS);
- Phạm vi xét xử phúc thẩm (Điều 293 BLTTDS);
- Hoãn phiên tòa phúc thẩm (Điều 296 BLTTDS);
- Hỏi về việc kháng cáo kháng nghị và xử lý việc thay đổi kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa (Điều 298 BLTTDS);
- Nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa hoặc trước phiên tòa phúc thẩm (Điều 299 BLTTDS);
- Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm (Điều 300 BLTTDS);
- Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm (Điều 305 BLTTDS);
- Thủ tục rút gọn (Từ điều 316 đến điều 324).
1.3. Một số điểm cần lưu tâm khi thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sụ 2015
a) Đương sự trong vụ án dân sự
Đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (khoản 1 Điều 68) là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm 03 chủ thể:
- Nguyên đơn;
- Bị đơn;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người, cơ quan, tổ chức khởi kiện, để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Có thể hiểu đơn giản nguyên đơn chính là cá nhân, tổ chức làm đơn khởi kiện.
Ngược lại, bị đơn là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
Tuy nhiên, vụ án dân sự thường không chỉ có 2 bên nguyên đơn và bị đơn mà còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Họ là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc được các đương sự khác đề nghị, được Tòa án chấp nhận đưa vào tham gia với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Lưu ý: Trường hợp vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng thì Tòa án phải đưa họ vào với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
b) Tòa án phải giải quyết mọi yêu cầu khởi kiện
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 186 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015).
Có thể thấy, bất cứ một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có đủ năng lực hành vi dân sự cũng có quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Khi khởi kiện, người khởi kiện phải nộp kèm tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Nếu những tài liệu, chứng cứ này không đầy đủ thì người khởi kiện nộp những tài liệu, chứng cứ hiện có và bổ sung các chứng cứ còn thiếu theo yêu cầu của Tòa án. Như vậy, pháp luật không hạn chế quyền khởi kiện của các cá nhân, tổ chức. Đồng thời, Bộ luật Tố tụng dân sự còn nhấn mạnh nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng (khoản 2 Điều 4).
Dù Tòa án không được từ chối mọi yêu cầu khởi kiện nhưng không có nghĩa tòa bắt buộc phải thụ lý trong mọi trường hợp. Để yêu cầu khởi kiện được thụ lý cần phải đáp ứng 4 yêu cầu sau:
Thứ nhất, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
Thứ hai, vụ án khởi kiện phải thuộc thẩm quyền của Tòa án;
Thứ ba, vụ án vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện;
Thứ tư, sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hay quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp có quy định khác của pháp luật.
c) Thời hiệu khởi kiện có thể lên tới 30 năm
Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, hết thời hạn đó thì mất quyền khởi kiện. Theo đó, thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 và có thể lên đến 30 năm.
Cụ thể, thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự như sau:
Stt Tranh chấp Thời hiệu
1 Tranh chấp hợp đồng dân sự 03 năm
2 Yêu cầu bồi thường thiệt hại 03 năm
3 Thừa kế Động sản 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế
Bất động sản 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế
4 Yêu cầu xác nhận, bãi bỏ quyền thừa kế 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế
5 Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại 03 năm kể từ thời điểm mở thừa kế
d) Nghĩa vụ chứng minh trong vụ án dân sự
Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nêu rõ, người yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình hay phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp người yêu cầu không phải chứng minh như người tiêu dùng khởi kiện người bán hàng, người lao động khởi kiện doanh nghiệp mà tài liệu, chứng cứ do doanh nghiệp giữ…
Bên cạnh đó, một số tình tiết, sự kiện khác người tham gia tố tụng cũng không phải chứng minh như đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án hoặc của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực; được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp;…(Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015). Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, đương sự có trách nhiệm bổ sung tài liệu, chứng cứ để chứng minh khi Tòa án có yêu cầu.
đ) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản và chứng cứ, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, có tất cả 17 biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có một số loại điển hình thường gặp như:
Kê biên tài sản đang tranh chấp: Biện pháp này được áp dụng khi có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Khi đó, tài sản được thu giữ, bảo quản tại cơ quan thi hành án hoặc giao cho một bên đương sự hoặc người thứ ba quản lý cho đến khi có quyết định của Tòa án.
Cấm chuyển dịch quyền tài sản đối với tài sản đang tranh chấp: Tài sản đang tranh chấp có thể được chuyển dịch thông qua các hình thức mua bán, cầm cố, thế chấp, cho thuê… Nếu chuyển dịch sẽ gây khó khăn cho Tòa án khi giải quyết, đồng thời gây thiệt hại cho đương sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Do vậy, khi có căn cứ cho thấy người đang giữ tài sản tranh chấp có hành vi chuyển quyền tài sản cho người khác thì việc cấm thực hiện hành vi này là cần thiết.
Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ: Đây là biện pháp xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, mới được bổ sung trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ được áp dụng khi có căn cứ cho thấy việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
e) Các loại bản án có hiệu lực thi hành ngay
Khoản 2 Điều 482 Bộ luật chỉ rõ 02 nhóm bản án, quyết định của Tòa sơ thẩm phải được thi hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, khiếu nại, kháng nghị, kiến nghị:
- Bản án, quyết định về cấp dưỡng; trả công, nhận người lao động trở lại làm việc, trả lương, trợ cấp thôi việc, mất sức lao động, mất việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất tinh thần hay quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công;
- Quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Bên cạnh đó, một số quyết định khác cũng có hiệu lực thi hành ngay như quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 139); tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án (Điều 288 và Điều 289); công nhận hoặc không công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (Điều 419).
g) Cản trở hoạt động tố tụng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự
Một trong những trở ngại lớn ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ giải quyết các vụ án là hành vi cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án. Các hành vi cản trở do chính người tham gia tố tụng thực hiện như không chấp hành theo giấy triệu tập; tự ý bỏ về giữa chừng; cố ý tẩu tán, hủy hoại tài liệu, chứng cứ; từ chối khai báo hoặc khai báo không đúng sự thật; mua chuộc, cưỡng ép người làm chứng để khai báo gian dối…Việc cản trở không chỉ do những người tham gia tố tụng thực hiện nhằm giành lợi thế cho mình, mà ngay cả các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng thực hiện, gây khó khăn cho Tòa. Do đó, theo quy định, dù là ai thực hiện bất cứ hành vi nào cản trở hoạt động tổ tụng thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.4. Quyền và nghĩa vụ của đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án dân sự
Để bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất cho người được TGPL trong các vụ việc dân sự, nhất là trong các vụ việc dân sự có nguồn gốc từ BLGĐ, trước hết, người thực hiện TGPL cần nắm được quy định của pháp luật tố tụng liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người mình bảo vệ; quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ Luật tố tụng dân sự 2015.
- Quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự được quy định tại các Điều 70, 71, 72 và Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cụ thể như sau:
Điều 70. Quyền, nghĩa vụ của đương sự
Đương sự có quyền, nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng. Khi tham gia tố tụng, đương sự có quyền, nghĩa vụ sau đây:
1. Tôn trọng Tòa án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa.
2. Nộp tiền tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
3. Cung cấp đầy đủ, chính xác địa chỉ nơi cư trú, trụ sở của mình; trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc nếu có thay đổi địa chỉ nơi cư trú, trụ sở thì phải thông báo kịp thời cho đương sự khác và Tòa án.
4. Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này.
5. Cung cấp tài liệu, chứng cứ; chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
6. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình.
7. Đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản.
8. Được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
9. Có nghĩa vụ gửi cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ, trừ tài liệu, chứng cứ mà đương sự khác đã có, tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
Trường hợp vì lý do chính đáng không thể sao chụp, gửi đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ thì họ có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ.
10. Đề nghị Tòa án quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
11. Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành.
12. Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
13. Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
14. Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật này.
15. Tham gia phiên tòa, phiên họp theo quy định của Bộ luật này.
16. Phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc.
17. Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.
18. Đề nghị Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ việc theo quy định của Bộ luật này.
19. Đưa ra câu hỏi với người khác về vấn đề liên quan đến vụ án hoặc đề xuất với Tòa án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau hoặc với người làm chứng.
20. Tranh luận tại phiên tòa, đưa ra lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng.
21. Được cấp trích lục bản án, bản án, quyết định của Tòa án.
22. Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này.
23. Đề nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
24. Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
25. Sử dụng quyền của đương sự một cách thiện chí, không được lạm dụng để gây cản trở hoạt động tố tụng của Tòa án, đương sự khác; trường hợp không thực hiện nghĩa vụ thì phải chịu hậu quả do Bộ luật này quy định.
26. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Điều 71. Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn
1. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
2. Thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
3. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Điều 72. Quyền, nghĩa vụ của bị đơn
1. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.
2. Được Tòa án thông báo về việc bị khởi kiện.
3. Chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
4. Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.
5. Đưa ra yêu cầu độc lập đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án. Đối với yêu cầu độc lập thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.
6. Trường hợp yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì bị đơn có quyền khởi kiện vụ án khác.
Điều 73. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền, nghĩa vụ sau đây:
a) Các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 70 của Bộ luật này;
b) Có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và yêu cầu độc lập này có liên quan đến việc giải quyết vụ án thì có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này. Trường hợp yêu cầu độc lập không được Tòa án chấp nhận để giải quyết trong cùng vụ án thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện vụ án khác.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc chỉ có quyền lợi thì có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu tham gia tố tụng với bên bị đơn hoặc chỉ có nghĩa vụ thì có quyền, nghĩa vụ của bị đơn quy định tại Điều 72 của Bộ luật này.
- Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sựđược quy định tại Điều 76 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, cụ thể như sau:
Điều 76. Quyền, nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
1. Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự.
2. Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này.
3. Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét.
4. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
5. Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự.
6. Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và 20 Điều 70 của Bộ luật này.
7. Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
1.5. Các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng dân sự có liên quan đến hoạt động của người thực hiện TGPL
Chương II Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định 25 nguyên tắc cơ bản, trong đó có những nguyên tắc liên quan đến hoạt động tranh tụng của Người thực hiện TGPL, bao gồm: Tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự (Điều 3); Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp (Điều 4); Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5); Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6); Trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền (Điều 7); Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8); Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 9), v.v.
- Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự (Điều 5): Tòa án không tự đưa ra quyết định giải quyết các tranh chấp dân sự, việc khởi kiện hay không khởi kiện là do các bên đương sự tự quyết định. Các bên đương sự vừa là người quyết định việc khởi động tiến trình tố tụng bằng cách khởi kiện vụ án dân sự ra Tòa án, đồng thời cũng là người quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo. Cụ thể: Nguyên đơn có thể rút đơn khởi kiện hoặc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình; Bị đơn có thể đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn, chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện mà bên nguyên đơn đưa ra; Các bên đương sự có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự một cách tự nguyện, không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; tự mình quyết định việc kháng cáo hay không kháng cáo phúc thẩm, v.v..
Tòa án sẽ chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Việc giải quyết vụ việc dân sự chỉ được thực hiện trong phạm vi yêu cầu khởi kiện, bị đơn đã được nêu trong đơn khởi kiện (riêng đối với trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì Tòa án có quyền tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu mà không phụ thuộc vào yêu cầu của các bên đương sự).
Thủ tục xét xử phúc thẩm vụ án dân sự được bắt đầu khi và chỉ khi có đơn kháng cáo của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện (hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát) đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật. Nếu người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo (hoặc Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị) thì Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ việc. Tòa án cấp phúc thẩm bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng nghị và chỉ có quyền xem xét lại phần bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị (Điều 293).
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Điều 9):  Theo nguyên tắc này, đương sự là người được TGPL có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Người thực hiện TGPL hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền này. Luật cũng xác định rõ, không ai được hạn chế quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật tố tụng dân sự quy định có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác thông qua con đường Tòa án. Trong trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác bị xâm phạm hoặc trong trường hợp ảnh hưởng đến lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách, các cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật dân sự quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại bất kỳ Tòa án nào có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Các quy định về thẩm quyền của Tòa án (thẩm quyền theo lãnh thổ, thẩm quyền theo vụ việc) phải bảo đảm để các bên có thể tiếp cận đến Tòa án giải quyết vụ việc một cách hợp lý và bình đẳng.
Tòa án có thẩm quyền phải có trách nhiệm thụ lý vụ việc dân sự để giải quyết theo quy định của pháp luật. Tòa án đã thụ lý có nghĩa vụ hướng dẫn cho các bên hoặc chuyển đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, người yêu cầu, nếu vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác. Trong trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc trong trường hợp Tòa án đã thụ lý ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu có quyền khiếu nại về việc đó.
- Nguyên tắc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự (Điều 6): Theo nguyên tắc này, đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự có nghĩa vụ chứng minh nên khi không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ (khoản 4 Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015). Hậu quả của việc này có thể là yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu mà đương sự đưa ra trước đó sẽ không được Tòa án chấp nhận hoặc chỉ được Tòa án chấp nhận một phần, v.v..
Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Vai trò của Tòa án trong việc xác minh, thu thập chứng cứ ở Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được đổi mới theo hướng Tòa án chỉ áp dụng một hoặc một số biện pháp thu thập chứng cứ trong những trường hợp luật định và việc tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án phải tuân theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do Bộ luật tố tụng dân sự quy định (từ Điều 97 đến Điều 106). Trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán không được tự mình xác minh, thu thập mà phải yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung chứng cứ (khoản 1 Điều 96).
- Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự (Điều 8): Theo nguyên tắc này, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Tòa án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Các đương sự có vị trí tố tụng như nhau có quyền, nghĩa vụ tố tụng như nhau. Trường hợp các đương sự có vị trí tố tụng khác nhau (chẳng hạn như vị trí nguyên đơn và vị trí bị đơn), các đương sự vẫn có cơ hội và khả năng bình đẳng như nhau trong việc thực hiện các quyền tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, như quyền đưa ra yêu cầu, quyền phản đối yêu cầu, quyền kháng cáo, khiếu nại, xuất trình chứng cứ, tranh luận, quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ, v.v.. Đồng thời, các đương sự cũng bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các nghĩa vụ tố tụng, như nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, nghĩa vụ tôn trọng Tòa án, chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án, v.v..
Tòa án giải quyết vụ việc dân sự phải khách quan, vô tư, không thiên vị và phải độc lập, không chịu sự ảnh hưởng từ bên ngoài; Tòa án có trách nhiệm giải thích cho các bên đương sự về quyền và nghĩa vụ của họ, báo trước về hậu quả pháp lý do thực hiện hoặc không thực hiện hành vi tố tụng, giúp đỡ các bên đương sự trong việc thực hiện quyền của mình, tạo mọi điều kiện để việc nghiên cứu chứng cứ được khách quan, toàn diện và đầy đủ, áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật khi giải quyết vụ việc dân sự.
- Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự (Điều 10): Hòa giải là một thủ tục tố tụng được thực hiện đối với mọi vụ án dân sự (đối với việc dân sự không có yếu tố tranh chấp thì không áp dụng thủ tục hòa giải) và được tiến hành ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi thụ lý vụ án cho đến khi Hội đồng xét xử phúc thẩm bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, trừ trường hợp vụ án dân sự thuộc trường hợp Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định không tiến hành hòa giải được. Ví dụ, Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; đương sự không thể tham gia hòa giải vì có lý do chính đáng; đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự và những trường hợp vụ án dân sự không được hòa giải (yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội).
Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hòa giải vừa được quy định với ý nghĩa là quyền tự định đoạt của đương sự, đồng thời cũng được khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng dân sự. Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Hòa giải trong tố tụng dân sự Việt Nam là hòa giải trước Tòa án, hay còn gọi là hòa giải trong quá trình tố tụng và được thực hiện với sự hiện diện của Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện để các đương sự hòa giải với nhau, giúp cho các bên đương sự hiểu rõ pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội đang tranh chấp, giải thích cho họ về hậu quả pháp lý trong trường hợp hòa giải thành và hòa giải không thành. Bên cạnh đó, Tòa án có nhiệm vụ giám sát việc thực hiện quyền tự định đoạt trong việc hòa giải của các bên đương sự nhằm bảo đảm tiến trình hòa giải diễn ra theo đúng quy định của pháp luật và có quyền không công nhận kết quả hòa giải, nếu sự thỏa thuận giữa các đương sự là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội hoặc xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.
(Còn tiếp,…)
Trần Nguyên Tú
Phó trưởng phòng – Phòng TC&QLCL
 

Xem thêm »