10/12/2019
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới theo các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và theo pháp luật Việt NamThông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý đã quy định một số biện pháp như tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật mà không bị phân biệt đối xử về giới; không tạo áp lực hoặc sử dụng điểm yếu về giới tính của người được trợ giúp pháp lý để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc...1. Khái quát về bạo lực trên cơ sở giới
Thuật ngữ bạo lực trên cơ sở giới (Gender-based violence - GBV) lần đầu tiên được Ủy ban về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Ủy ban CEDAW) đưa ra tại điểm 1 Khuyến nghị chung số 19 tại khóa họp 11 năm 1992 (Khuyến nghị 19): “Bạo lực trên cơ sở giới là hình thức phân biệt đối xử ngăn cản nghiêm trọng khả năng của phụ nữ được hưởng tự do và các quyền trên cơ sở bình đẳng với nam giới”[1]. Tại khoản 6 Khuyến nghị 19 bình luận: “Định nghĩa về sự phân biệt đối xử bao gồm cả bạo lực trên giới tính, nghĩa là bạo lực chống một phụ nữ vì người đó là phụ nữ, hoặc bạo lực gây ra tác động không ngang bằng với phụ nữ. Nó bao gồm những hành động tây tổn hại về thân thể, tinh thần, tình dục hoặc gây ra đau khổ, những lời đe dọa tiến hành những hành động như vậy, sự ép buộc và các hành động tước đoạt tự do khác”[2]. Như vậy, quan điểm bạo lực trên cơ sở giới theo Ủy ban CEDAW được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là bạo lực nhằm vào phụ nữ, không bao gồm chiều ngược lại là bạo lực nhằm vào nam giới trên cơ sở phân biệt về giới tính.
Trên cơ sở kế thừa định hướng dẫn của Ủy ban CEDAW, Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) lại định nghĩa khác: “Bạo lực trên cơ sở giới được sử dụng để phân biệt bạo lực nói chung với bạo lực nhằm vào các cá nhân hoặc nhóm cá nhân trên cơ sở giới. Bạo lực trên cơ sở giới được định nghĩa bởi Ủy ban CEDAW là bạo lực hướng vào một người trên cơ sở giới tính hoặc tình dục. Nó bao gồm những hành động gây tổn hại về thân thể, tinh thần, tình dục hoặc gây ra đau khổ, những lời đe dọa tiến hành những hành động như vậy, sự ép buộc và các hành động tước đoạt tự do khác”[3].
Theo tài liệu “Bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái - Sổ tay giám sát và chỉ số đánh giá” năm 2008 của Shelah S. Bloom, chuyên gia tư vấn cao cấp trong đánh giá về giới, Đại học Bắc Carolina,“Bạo lực trên cơ sở giới là thuật ngữ chung dùng để chỉ bạo lực xảy ra với hậu quả pháp lý có thể dự đoán trong mối liên hệ với mỗi giới, cùng với các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa hai giới trong bối cảnh một xã hội cụ thể” (Trang 14)[4].
Như vậy, định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới của UNHCR và Shelah S. Bloom được hiểu theo nghĩa rộng là hành vi bạo lực nhằm vào một người trên cơ sở giới tính của người đó. Hành vi đó có thể xâm hại, đe dọa xâm hại về thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục hay tước đoạt tự do của người đó. Hành vi đó có thể xảy ra đối với cả nam, nữ hoặc giới tính khác (người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới) với người xâm hại là nam, nữ hoặc giới tính khác.
Định nghĩa trên được nhiều tổ chức quốc tế sử dụng trong các văn bản, tài liệu, chương trình chính thức về bạo lực chống lại phụ nữ, bạo lực trên cơ sở giới (Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID)[5]; Viện Bình đẳng giới Châu Âu[6]; “Chương trình tăng cường hệ thống ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới ở Đông Âu và Trung Á” do Tổ chức Phụ nữ chống lại bạo lực Châu Âu (WAVE) và Quỹ dân số liên hợp quốc (UNFPA) ở Đông Âu và Trung Á tài trợ[7]…).
Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa chính thức về bạo lực trên cơ sở giới. Trên cơ sở quy định của nguyên tắc Hiến định: “Mọi người bình đẳng trước pháp luật”, “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 16 và khoản 1, khoản 3 Điều 26 Hiến pháp), Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định “Bạo lực trên cơ sở giới” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm (khoản 3, Điều 10) nhưng không quy định rõ thế nào là hành vi bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên thông qua các định nghĩa “Giới[8]”, “Giới tính[9]” trong Luật Bình đẳng giới năm 2006 và “Bạo lực gia đình[10]”, 09 nhóm hành vi bạo lực gia đình[11] trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có thể thấy quan niệm về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam cơ bản được hiểu phù hợp với hướng dẫn của UNHCR. Đồng thời, một số ít nghiên cứu về bạo lực trên cơ sở giới cũng có cách hiểu tương tự[12]. Theo đó, bạo lực trên cơ sở giới được hiểu là bạo lực nhằm vào một người vì lý do giới tính của người đó. Hành vi này có thể xâm hại đến thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục, tự do của người đó. Nạn nhân của hành vi này có thể là phụ nữ hoặc nam giới nhưng nhóm có nguy cơ cao nhất và chịu tác động nặng nề nhất do bạo lực gây ra là phụ nữ.
2. Quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới
Việt Nam hiện là thành viên của 07 Công ước đa phương về nhân quyền[13]. Tuy nhiên, nội dung về trợ giúp pháp lý chỉ được quy định trong một số Công ước. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (CCPR) quy định: Trong phán quyết về bất kỳ sự buộc tội hình sự nào chống lại mình, mọi người có quyền có mặt khi xét xử và tự bào chữa hoặc nhờ người khác do mình lựa chọn bào chữa; nếu không có người bào chữa thì được thông báo về quyền này và được chỉ định người bào chữa trong trường hợp vì yêu cầu của công lý và họ không có điều kiện chi trả cho việc đó (điểm d khoản 3 Điều 14)[14]. Đồng thời, Công ước Công ước về quyền trẻ em (CRC) quy định: Những trẻ em bị tước quyền tự do có quyền được giúp đỡ về pháp lý và giúp đỡ thích hợp khác; những trẻ em bị coi là hay bị tố cáo là đã vi phạm luật hình sự ít nhất được giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự bảo vệ của mình (điểm d Điều 37, điểm b khoản 2 Điều 40)[15]. Như vậy, quy định về trợ giúp pháp lý chỉ được quy định mang tính chất nguyên tắc trong các Công ước. Công ước CCPR và CRC quy định quyền của người bị buộc tội, người bị tước quyền tự do có quyền được trợ giúp pháp lý khi bị buộc tội hoặc tước quyền tự do và các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải bảo đảm thực hiện các quyền tối thiểu này. Do không quy định cụ thể việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nên đối tượng này được suy đoán là được trợ giúp pháp lý nếu thuộc các đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của các Công ước. Đối với việc trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực, vụ việc, đối tượng khác được khuyến khích thực hiện trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh của các quốc gia.
Bên cạnh đó, Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) quy định: Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý để xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ; thừa nhận sự bình đẳng của phụ nữ với nam giới trước pháp luật (Điều 2 và Điều 15). Ủy ban CEDAW trong Khuyến nghị 19 khuyến nghị: Bạo lực trên cơ sở giới làm giảm bớt hoặc hủy bỏ việc phụ nữ được hưởng quyền được bảo vệ bình đẳng của luật pháp; các quốc thành viên phải có các biện pháp thức hợp và hiệu quả nhằm khắc phục mọi hình thức bạo lực dựa trên cơ sở giới tính, trong đó có các biện pháp về luật pháp và dịch vụ hỗ trợ, phục hồi dành cho những phụ nữ là nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (Điểm e khoản 6, điểm b và t khoản 24). Như vậy, Công ước CEDAW cũng không quy định rõ việc trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nói chung và phụ nữ là nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới. Việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “áp dụng các biện pháp thích hợp và xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ” và trợ giúp pháp lý được coi là một trong những dịch vụ “hỗ trợ và phục hồi” dành cho các nạn nhân bạo lực.
3. Quy định về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới theo pháp luật Việt Nam
Sau khi tham gia các Công ước CCPR, CRC và CEDAW, Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật từng bước nội luật hóa các quy định của Công ước. Đến nay, bên cạnh nguyên tắc hiến định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”, Việt Nam còn ban hành nhiều văn bản quan trọng có những quy định liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật quy định về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực còn có mức độ, tập trung vào các quy định sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý: Việc trợ giúp pháp lý được điều chỉnh bởi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người được trợ giúp pháp lý bao gồm: người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em (quy định này thậm chí còn mở rộng hơn so với quy định tại điểm d Điều 37, điểm b khoản 2 Điều 40 Công ước CRC); người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; những người có khó khăn về tài chính (người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng) thuộc một trong các trường hợp sau: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV.
Như vậy, tiến bộ hơn Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 hiện hành đã quy định 02 nhóm đối tượng người được trợ giúp pháp lý độc lập liên quan chặt chẽ đến nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (Người có khó khăn về tài chính là nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người). Ngoài ra, nếu nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thuộc một trong trong 12 nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý còn lại thì vẫn được hưởng quyền trợ giúp pháp lý.
Bên cạnh đó, thông qua quy định việc “phân biệt đối xử người được trợ giúp pháp lý” là một trong những hành vi bị cấm (Điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017) cũng cho thấy hoạt động trợ giúp pháp lý bảo đảm cho người được trợ giúp pháp lý có quyền ngang nhau khi thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý mà không bị phân biệt đối xử dù họ là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới hoặc là nam hay nữ.
Nhằm bảo đảm sự tham gia bình đẳng của người được trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ và hỗ trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ cho người được trợ giúp pháp lý là người mẹ, trẻ em gái, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục, Thông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý (hiện vẫn còn hiệu lực) đã quy định một số biện pháp như tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật mà không bị phân biệt đối xử về giới; không tạo áp lực hoặc sử dụng điểm yếu về giới tính của người được trợ giúp pháp lý để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc; khi phát hiện người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thông tin, phối hợp với cơ sở trợ giúp, hỗ trợ nạn nhân để thực hiện biện pháp hỗ trợ, bảo vệ và trợ giúp theo quy định của pháp luật; trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý chuyển vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền xử lý hoặc đề nghị cơ quan công an hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho nạn nhân…
Nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới là người được trợ giúp pháp lý được trợ giúp pháp lý theo hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn để được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 31, Điều 32, Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017). Riêng trong lĩnh vực tham gia tố tụng, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền thi hành tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm phối hợp với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho họ. Đặc biệt, với việc quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trên trong việc giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý cho các đối tượng; thông báo, thông tin cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để có thể tiếp cận đối tượng kịp thời là một cơ chế quan trọng giúp giảm thiểu việc bỏ lọt những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, trong đó có nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới. Đồng thời, với quy định về chỉ định bào chữa cho trẻ em thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý đã tạo cơ sở cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng này (Điều 41 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC- TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng).
Thứ hai, quy định về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình: Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định khái niệm, hành vi, điều cấm, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý đối với các hành vi bất bình đẳng giới, bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân của các hành vi trên. Các quy định trên là cơ sở để xác định hành vi bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới và là cơ sở để các văn bản pháp luật khác quy định các biện pháp cụ thể trong việc đấu tranh phòng, chống các hành vi này, bảm đảm phù hợp với các quy định của các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, trên cơ sở quy định mang tính nguyên tắc “Phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn pháp luật để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình” (Khoản 1, Điều 24 Luật phòng Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007) đã tạo cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng này.
Thứ ba, quy định về phòng, chống mua bán người: Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định: (1) Các khái niệm về “Bóc lột tình dục”, “Nô lệ tình dục”, “Cưỡng bức lao động” (Điều 2); (2) Các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người (Điều 3); (3) Các biện pháp trong phòng, chống mua bán người; phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật và tiếp nhận, xác minh, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân; (4) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mua bán người. Đặc biệt, Điều 36 quy định nạn nhân được tư vấn pháp luật để phòng ngừa bị mua bán trở lại và được trợ giúp pháp lý để làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, nhận chế độ hỗ trợ, đòi bồi thường thiệt hại, tham gia tố tụng và các thủ tục pháp lý khác có liên quan đến vụ việc mua bán người. Trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Thứ tư, quy định về hình sự và tố tụng hình sự: Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017 (sau đây gọi chung là Bộ luật hình sự năm 2015) có nhiều điều luật quy định liên quan đến răn đe, trừng phạt hành vi bạo lực trên cơ sở giới đủ yếu tố cấu thành tội phạm và bảo vệ nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chống lại các hành vi này. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tình tiết phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên; người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác… là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52); các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các khung hình phạt tương ứng áp dụng đối với mức độ thương tật mà hành vi bạo lực gây ra cho nạn nhân (Từ Điều 134 đến Điều 139); tội hành hạ người khác (Điều 140); các tội khác liên quan đến chống bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em (Từ Điều 141 đến Điều 147), riêng Bộ luật Hình sự năm 2015 có bổ sung tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); các tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt người (Điều 150 đến Điều 153); tội làm nhục người khác, vu khống (Điều 155, Điều 156); các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình, trong đó bao gồm các tội xuất phát từ yếu tố bạo lực gây ra, đủ sức cấu thành tội phạm có thể bị xử lý theo các tội tương ứng (Điều 181, Điều 182, Điều 185). Đặc biệt, Bộ luật quy định “tội xâm phạm quyền bình đẳng giới” (Điều 165) có tính chất mở rộng so với Điều 130 “Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ” (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999).
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định về việc nạn nhân trong các vụ án được bảo vệ đời tư thông qua quy định quyền của người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố có quyền “Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa” (Điều 56); quy định khi tiến hành khám người hay xem xét thân thể người để tìm chứng cứ quan trọng đối với vụ án phải do người cùng giới tiến hành và có người cùng giới chứng kiến, trong trường hợp cần thiết thì có bác sỹ tham gia… (Điều 194 và Điều 203). Vận dụng quy định trên, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới có cơ sở để được bảo vệ trong các vụ án hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý về quyền được trợ giúp pháp lý, nếu họ đề nghị trợ giúp pháp lý thì phải thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ (Điều 71); Trợ giúp viên pháp lý và luật sư (bao gồm cả luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý) được tham với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại (Điều 84). Đây là các quy định mới bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người bị hại thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Thứ năm, quy định về dân sự và tố tụng dân sự: Bộ luật dân sự năm 2015 có nhiều quy định liên quan đến việc chống lại các hành vi bạo lực, kể cả bạo lực trên cơ sở giới: (1) Quy định các nguyên tắc trong dân sự như nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự, không phân biệt giới tính (Điều 5); nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, cụ thể khi quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm (kể cả do hành vi bạo lực), chủ thể có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại (Điều 9); nguyên tắc không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự (Điều 12); (2) Quy định các quyền về nhân thân và tài sản của cá nhân, nghiêm cấm việc xâm phạm các quyền này, kể cả sử dụng vũ lực và khi các quyền này bị xâm phạm, chủ thể quyền có thể có thể lựa chọn các giải pháp bảo vệ quyền của mình (Chương III); (3) Quy định giao dịch vô hiệu trong trường hợp do bị lừa dối, đe dọa và người tham gia giao dịch đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (Điều 132 và Điều 137); (4) Quy định hạn chế năng lực hành vi dân sự xuất phát từ hành vi có tính chất bạo lực của người nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình để bảo vệ tài sản cho người có liên quan (Điều 23).
Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Thẩm phán có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý (Khoản 6 Điều 48). Đây là quy định bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho đương sự là đối tượng trợ giúp pháp lý trong vụ án dân sự.
Thứ sáu, quy định về trẻ em: Luật Trẻ em năm 2016 có các quy định bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực, bao gồm cả bạo lực trên cơ sở giới: (1) Quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với trẻ em, trong đó có các hành vi liên quan quan đến bạo lực; (2) Quy định các quyền của trẻ em, trong đó liên quan đến việc chống bạo lực đối với trẻ em; (3) Quy định riêng về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để có chính sách riêng hỗ trợ các đối tượng này, trong đó có một số đối tượng có nguy cơ bị bạo lực (Điều 10 Luật Trẻ em năm 2016). Về trợ giúp pháp lý, Luật trẻ em năm 2016 quy định trẻ em có quyền được trợ giúp pháp lý trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính (Điều 30).
4. Đánh giá về các quy định pháp luật của Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới
Như trên đã phân tích, pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nói riêng đã đáp ứng cơ bản yêu cầu của các Công ước CCPR, CRC, CEDAW mà Việt Nam là thành viên về trợ giúp pháp lý cho các đối tương cụ thể:
- Việt Nam có Hiến pháp quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; thể chế hóa Hiến pháp, các Bộ luật, luật tố tụng năm 2015 đã có các quy định bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đương sự trong các vụ án.
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là văn bản luật chuyên ngành quy định về trợ giúp pháp lý cho đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý là người nghèo hoặc đối tượng yếu thế khác không có điều kiện thuê luật sư khi có các vấn đề pháp lý hoặc xuất phát từ mục tiêu bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội. Phần lớn các đối tượng như người thuộc hộ nghèo, người già, người khuyết tật, người nhiễm HIV, trẻ em, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người… cũng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo pháp luật của một số nước (Ví dụ: Ấn Độ, Hoa Kỳ, Israel...).
Các đối tượng bắt buộc phải có được bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý như người bị buộc tội, trẻ em bị tước quyền tự do cơ bản đã được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các Bộ luật, luật tố tụng năm 2015.
Phụ nữ được bảo đảm trợ giúp pháp lý bình đẳng với nam giới, không có sự phân biệt đối xử; một số quy định đặc thù về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trong khi thực hiện trợ giúp pháp lý để bảo đảm bình đẳng giới trong hoạt động này cũng không bị coi là “phân biệt đối xử” theo Công ước CEDAW.
Tuy nhiên, so với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Khuyến nghị 19 của Ủy ban CEDAW, quy định của pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới vẫn có một số bất cập sau:
- Pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ bạo lực trên cơ sở giới mà hành vi này mới được quy định một phần trong hành vi bạo lực gia đình, tập trung vào bạo lực chống lại phụ nữ nên chưa có cơ sở để Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 và các luật có liên quan có đầy đủ các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bạo lực.
- Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được quy định là đối tượng trợ giúp pháp lý riêng (được bảo vệ thông qua nhóm đối tượng là “nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình” và “nạn nhân của hành vi mua bán người” có khó khăn về tài chính (là chủ yếu) và thuộc các nhóm đối tượng khác) nên việc bảo vệ nhóm đối tượng này còn có mức độ nhất định. Các quy đinh trên mặc dù đáp ứng yêu cầu của Công ước CEDAW nhưng chưa được mở rộng theo tinh thần của Khuyến nghị 19, trong khi đây cũng là nhóm đối tượng yếu thế cần được trợ giúp pháp lý khi có các vướng mắc về pháp lý.
Đồng thời, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định nạn nhân bạo lực gia đình có quyền được tư vấn pháp lý nhưng không quy định rõ cơ quan, tổ chức thực hiện, trình tự, thủ tục thực hiện, phạm vi thực hiện… để bảo đảm thực hiện quyền này.
Trên thực tiễn, do nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được quy định là đối tượng trợ giúp pháp lý riêng trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nên quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối tượng trên còn có một số bất cập: (1) Hoạt động trợ giúp chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu trợ giúp pháp lý của nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; (2) Vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình nói chung và nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được thống kê hàng năm nên chưa có đầy đủ số liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; (3) Nhiều người thực hiện trợ giúp pháp lý chưa được trang bị kỹ năng về trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới; (4) Các hoạt động trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới mới được lồng ghép trong các hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung, chưa có nhiều hoạt động đặc thù, thường xuyên, liên tục…
- Một số quy định của pháp luật về bạo lực trên cơ sở giới chưa đầy đủ nên chưa có cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm này để bảo vệ đối tượng bị xâm hại. Ví dụ: pháp luật hình sự, dân sự, lao động chưa quy định rõ về hành vi quấy rối tình dục, đặc biệt là quấy rối ở nơi làm việc theo quy định của Khuyến nghị 19 là hành vi bạo lực trên cơ sở giới, trong khi trên thực tế đang diễn ra hành vi này với nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em gái. Do đó, chưa có cơ sở xử lý hành vi trên theo pháp luật hình sự, hành chính và chỉ có thể vận dụng các quy định hiện hành xử lý về hành vi vi phạm khác nếu đủ dấu hiệu của hành vi vi phạm (Ví dụ: xử lý theo các tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ôm với trẻ em, sử dụng người dưới 16 tuổi và mục đích khiêu dâm… nếu hành vi quấy rối tình dục đủ yếu tố cấu thành các tội trên), dẫn tới việc chưa có cơ chế bảo vệ hiệu quả phụ nữ và trẻ em gái chống lại hành vi quấy rối tình dục, trong đó có cả việc trợ giúp pháp lý cho các nạn nhân.
- Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, hôn nhân và gia đình chưa có quy định cụ thể về bảo đảm trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới. Do đó, chưa có cơ sở để thực hiện trợ giúp pháp lý hiệu quả cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới trong các lĩnh vực trên.
5. Một số đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, để góp phần phòng, chống các hành vi bạo lực trên cơ sở giới và thúc đẩy trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
1. Cần tăng cường nội luật hóa các Công ước CCPR, CRC, CEDAW và cụ thể hóa Khuyến nghị 19 của Ủy ban CEDAW về bạo lực trên cơ sở giới. Hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực quy định theo hướng quy định rõ về bạo lực trên cơ sở giới để làm cơ sở cho việc quy định trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới được hiệu quả.
Mặc dù Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã có bước tiến bộ hơn so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thông qua việc quy định hai nhóm đối tượng độc lập liên quan chặt chẽ tới nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (được bảo vệ thông qua nhóm đối tượng là “nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình” và “nạn nhân của hành vi mua bán người” có khó khăn về tài chính), tuy nhiên, để việc bảo vệ quyền được trợ giúp pháp lý của nhóm đối tượng này được đầy đủ hơn, cần có sự quy phạm hóa rõ ràng đối với nhóm đối tượng này.
2. Cần tăng cường truyền thông về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý nói riêng trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý; lồng ghép nội dung về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới trong các hoạt động trợ giúp pháp lý ở cơ sở (trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt câu lạc bộ ở địa phương) để thay đổi nhận thức của cán bộ, công chức và người dân, thúc đẩy công tác trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên tại cơ sở.
3. Cần tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương đối với địa phương, tăng cường sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với các Sở, ban, ngành; sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành có liên quan ở Trung ương, giữa Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với các Sở, ban, ngành ở địa phương trong việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực gia đình nói riêng và bạo lực trên cơ sở giới nói chung.
4. Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp cấp tỉnh cần thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho cho người thực hiện trợ giúp pháp lý về kỹ năng trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới, nhất là kỹ năng tư vấn và tham gia tố tụng trong vụ việc bạo lực trên cơ sở giới, cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới.
5. Trong điều kiện nguồn viện trợ ODA cắt giảm mạnh từ sau năm 2010, ngân sách nhà nước cần bảo đảm việc hỗ trợ kinh phí cho các địa phương trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nói riêng; bảo đảm cơ sở vật chất để Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có nơi làm việc, địa điểm tiếp đối tượng riêng và trang thiết bị, phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác.
6. Cần tăng cường hợp tác giữa Bộ Tư pháp với các tổ chức quốc tế (UNWomen, UNICEF, UNODC, UNAIDS…) và các nước trong việc trợ giúp pháp lý trong các vụ việc bạo lực trên cơ sở giới, cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thông qua nhiều hình thức: Hỗ trợ hoàn thiện thể chế về trợ giúp pháp lý trong các vụ việc bạo lực trên cơ sở giới và cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; hỗ trợ thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; hỗ trợ các hoạt động trợ giúp pháp lý đặc thù cho nạn nhân tại các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; hỗ trợ các nguồn lực cho các hoạt động nâng cao năng lực cho người quản lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới…/.
Ths. Nguyễn Thị Pha - Cục Trợ giúp pháp lý
[1]http://www.un.org/womenwatch/daw/cedaw/recommendations/recomm.htm.
[2] http://www.un.org/womenwatch/daw/cedaw/recommendations/recomm.htm.
[3]http://www.unhcr.org/protection/women/3f696bcc4/sexual-gender-based-viol....
[4]http://cpwg.net/resources/violence-against-women-and-girls-bloom-2008/.
[5] //www.usaid.gov/gbv.
[6] http://eige.europa.eu/gender-based-violence/what-is-gender-based-violence.
[7] http://www.health-genderviolence.org/training-programme-for-health-care-....
[8] Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006: Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
[9] Khoản 2 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006: Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
[10] Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007: Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
[11] Điều 2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007:
[12] http://www.socialwork.vn/bao-luc-tren-co-so-gioi-mot-so-khia-canh-ve-lua...
[13] http://tbinternet.ohchr.org/_layouts/TreatyBodyExternal/Treaty.aspx?CountryID=192&Lang=EN: Công ước quốc tế về kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR); Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (CCPR); Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Công ước quốc tế về loại bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD); Công ước về quyền trẻ em (CRC); Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD); Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT).
[14] https://treaties.un.org/pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=IV-4&...
[15] http://www.ohchr.org/en/professionalinterest/pages/crc.aspx
Thông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý đã quy định một số biện pháp như tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật mà không bị phân biệt đối xử về giới; không tạo áp lực hoặc sử dụng điểm yếu về giới tính của người được trợ giúp pháp lý để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc...
1. Khái quát về bạo lực trên cơ sở giới
Thuật ngữ bạo lực trên cơ sở giới (Gender-based violence - GBV) lần đầu tiên được Ủy ban về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Ủy ban CEDAW) đưa ra tại điểm 1 Khuyến nghị chung số 19 tại khóa họp 11 năm 1992 (Khuyến nghị 19): “Bạo lực trên cơ sở giới là hình thức phân biệt đối xử ngăn cản nghiêm trọng khả năng của phụ nữ được hưởng tự do và các quyền trên cơ sở bình đẳng với nam giới”[1]. Tại khoản 6 Khuyến nghị 19 bình luận: “Định nghĩa về sự phân biệt đối xử bao gồm cả bạo lực trên giới tính, nghĩa là bạo lực chống một phụ nữ vì người đó là phụ nữ, hoặc bạo lực gây ra tác động không ngang bằng với phụ nữ. Nó bao gồm những hành động tây tổn hại về thân thể, tinh thần, tình dục hoặc gây ra đau khổ, những lời đe dọa tiến hành những hành động như vậy, sự ép buộc và các hành động tước đoạt tự do khác”[2]. Như vậy, quan điểm bạo lực trên cơ sở giới theo Ủy ban CEDAW được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là bạo lực nhằm vào phụ nữ, không bao gồm chiều ngược lại là bạo lực nhằm vào nam giới trên cơ sở phân biệt về giới tính.
Trên cơ sở kế thừa định hướng dẫn của Ủy ban CEDAW, Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn (UNHCR) lại định nghĩa khác: “Bạo lực trên cơ sở giới được sử dụng để phân biệt bạo lực nói chung với bạo lực nhằm vào các cá nhân hoặc nhóm cá nhân trên cơ sở giới. Bạo lực trên cơ sở giới được định nghĩa bởi Ủy ban CEDAW là bạo lực hướng vào một người trên cơ sở giới tính hoặc tình dục. Nó bao gồm những hành động gây tổn hại về thân thể, tinh thần, tình dục hoặc gây ra đau khổ, những lời đe dọa tiến hành những hành động như vậy, sự ép buộc và các hành động tước đoạt tự do khác”[3].
Theo tài liệu “Bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái - Sổ tay giám sát và chỉ số đánh giá” năm 2008 của Shelah S. Bloom, chuyên gia tư vấn cao cấp trong đánh giá về giới, Đại học Bắc Carolina,“Bạo lực trên cơ sở giới là thuật ngữ chung dùng để chỉ bạo lực xảy ra với hậu quả pháp lý có thể dự đoán trong mối liên hệ với mỗi giới, cùng với các mối quan hệ quyền lực bất bình đẳng giữa hai giới trong bối cảnh một xã hội cụ thể” (Trang 14)[4].
Như vậy, định nghĩa về bạo lực trên cơ sở giới của UNHCR và Shelah S. Bloom được hiểu theo nghĩa rộng là hành vi bạo lực nhằm vào một người trên cơ sở giới tính của người đó. Hành vi đó có thể xâm hại, đe dọa xâm hại về thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục hay tước đoạt tự do của người đó. Hành vi đó có thể xảy ra đối với cả nam, nữ hoặc giới tính khác (người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới) với người xâm hại là nam, nữ hoặc giới tính khác.
Định nghĩa trên được nhiều tổ chức quốc tế sử dụng trong các văn bản, tài liệu, chương trình chính thức về bạo lực chống lại phụ nữ, bạo lực trên cơ sở giới (Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID)[5]; Viện Bình đẳng giới Châu Âu[6]; “Chương trình tăng cường hệ thống ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới ở Đông Âu và Trung Á” do Tổ chức Phụ nữ chống lại bạo lực Châu Âu (WAVE) và Quỹ dân số liên hợp quốc (UNFPA) ở Đông Âu và Trung Á tài trợ[7]…).
Tại Việt Nam, pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa chính thức về bạo lực trên cơ sở giới. Trên cơ sở quy định của nguyên tắc Hiến định: “Mọi người bình đẳng trước pháp luật”, “Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới” và “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 16 và khoản 1, khoản 3 Điều 26 Hiến pháp), Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định “Bạo lực trên cơ sở giới” là một trong những hành vi bị nghiêm cấm (khoản 3, Điều 10) nhưng không quy định rõ thế nào là hành vi bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên thông qua các định nghĩa “Giới[8]”, “Giới tính[9]” trong Luật Bình đẳng giới năm 2006 và “Bạo lực gia đình[10]”, 09 nhóm hành vi bạo lực gia đình[11] trong Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 có thể thấy quan niệm về bạo lực trên cơ sở giới ở Việt Nam cơ bản được hiểu phù hợp với hướng dẫn của UNHCR. Đồng thời, một số ít nghiên cứu về bạo lực trên cơ sở giới cũng có cách hiểu tương tự[12]. Theo đó, bạo lực trên cơ sở giới được hiểu là bạo lực nhằm vào một người vì lý do giới tính của người đó. Hành vi này có thể xâm hại đến thể chất, tinh thần, kinh tế, tình dục, tự do của người đó. Nạn nhân của hành vi này có thể là phụ nữ hoặc nam giới nhưng nhóm có nguy cơ cao nhất và chịu tác động nặng nề nhất do bạo lực gây ra là phụ nữ.
2. Quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới
Việt Nam hiện là thành viên của 07 Công ước đa phương về nhân quyền[13]. Tuy nhiên, nội dung về trợ giúp pháp lý chỉ được quy định trong một số Công ước. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (CCPR) quy định: Trong phán quyết về bất kỳ sự buộc tội hình sự nào chống lại mình, mọi người có quyền có mặt khi xét xử và tự bào chữa hoặc nhờ người khác do mình lựa chọn bào chữa; nếu không có người bào chữa thì được thông báo về quyền này và được chỉ định người bào chữa trong trường hợp vì yêu cầu của công lý và họ không có điều kiện chi trả cho việc đó (điểm d khoản 3 Điều 14)[14]. Đồng thời, Công ước Công ước về quyền trẻ em (CRC) quy định: Những trẻ em bị tước quyền tự do có quyền được giúp đỡ về pháp lý và giúp đỡ thích hợp khác; những trẻ em bị coi là hay bị tố cáo là đã vi phạm luật hình sự ít nhất được giúp đỡ về pháp lý hoặc những giúp đỡ thích hợp khác để chuẩn bị và trình bày sự bảo vệ của mình (điểm d Điều 37, điểm b khoản 2 Điều 40)[15]. Như vậy, quy định về trợ giúp pháp lý chỉ được quy định mang tính chất nguyên tắc trong các Công ước. Công ước CCPR và CRC quy định quyền của người bị buộc tội, người bị tước quyền tự do có quyền được trợ giúp pháp lý khi bị buộc tội hoặc tước quyền tự do và các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải bảo đảm thực hiện các quyền tối thiểu này. Do không quy định cụ thể việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nên đối tượng này được suy đoán là được trợ giúp pháp lý nếu thuộc các đối tượng được trợ giúp pháp lý theo quy định của các Công ước. Đối với việc trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực, vụ việc, đối tượng khác được khuyến khích thực hiện trên cơ sở điều kiện, hoàn cảnh của các quốc gia.
Bên cạnh đó, Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) quy định: Các quốc gia thành viên Công ước phải áp dụng tất cả các biện pháp thích hợp, kể cả về mặt pháp lý để xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ; thừa nhận sự bình đẳng của phụ nữ với nam giới trước pháp luật (Điều 2 và Điều 15). Ủy ban CEDAW trong Khuyến nghị 19 khuyến nghị: Bạo lực trên cơ sở giới làm giảm bớt hoặc hủy bỏ việc phụ nữ được hưởng quyền được bảo vệ bình đẳng của luật pháp; các quốc thành viên phải có các biện pháp thức hợp và hiệu quả nhằm khắc phục mọi hình thức bạo lực dựa trên cơ sở giới tính, trong đó có các biện pháp về luật pháp và dịch vụ hỗ trợ, phục hồi dành cho những phụ nữ là nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (Điểm e khoản 6, điểm b và t khoản 24). Như vậy, Công ước CEDAW cũng không quy định rõ việc trợ giúp pháp lý cho phụ nữ nói chung và phụ nữ là nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới. Việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên chỉ được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc “áp dụng các biện pháp thích hợp và xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ” và trợ giúp pháp lý được coi là một trong những dịch vụ “hỗ trợ và phục hồi” dành cho các nạn nhân bạo lực.
3. Quy định về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới theo pháp luật Việt Nam
Sau khi tham gia các Công ước CCPR, CRC và CEDAW, Việt Nam đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật từng bước nội luật hóa các quy định của Công ước. Đến nay, bên cạnh nguyên tắc hiến định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”, Việt Nam còn ban hành nhiều văn bản quan trọng có những quy định liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật quy định về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực còn có mức độ, tập trung vào các quy định sau:
Thứ nhất, quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý: Việc trợ giúp pháp lý được điều chỉnh bởi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người được trợ giúp pháp lý bao gồm: người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em (quy định này thậm chí còn mở rộng hơn so với quy định tại điểm d Điều 37, điểm b khoản 2 Điều 40 Công ước CRC); người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; những người có khó khăn về tài chính (người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng) thuộc một trong các trường hợp sau: cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV.
Như vậy, tiến bộ hơn Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 hiện hành đã quy định 02 nhóm đối tượng người được trợ giúp pháp lý độc lập liên quan chặt chẽ đến nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (Người có khó khăn về tài chính là nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người). Ngoài ra, nếu nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thuộc một trong trong 12 nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý còn lại thì vẫn được hưởng quyền trợ giúp pháp lý.
Bên cạnh đó, thông qua quy định việc “phân biệt đối xử người được trợ giúp pháp lý” là một trong những hành vi bị cấm (Điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017) cũng cho thấy hoạt động trợ giúp pháp lý bảo đảm cho người được trợ giúp pháp lý có quyền ngang nhau khi thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý mà không bị phân biệt đối xử dù họ là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới hoặc là nam hay nữ.
Nhằm bảo đảm sự tham gia bình đẳng của người được trợ giúp pháp lý trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ và hỗ trợ thực hiện các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ cho người được trợ giúp pháp lý là người mẹ, trẻ em gái, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục, Thông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong trợ giúp pháp lý (hiện vẫn còn hiệu lực) đã quy định một số biện pháp như tạo điều kiện cho người được trợ giúp pháp lý tiếp cận và thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật mà không bị phân biệt đối xử về giới; không tạo áp lực hoặc sử dụng điểm yếu về giới tính của người được trợ giúp pháp lý để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc; khi phát hiện người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thông tin, phối hợp với cơ sở trợ giúp, hỗ trợ nạn nhân để thực hiện biện pháp hỗ trợ, bảo vệ và trợ giúp theo quy định của pháp luật; trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật thì tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý chuyển vụ việc cho cơ quan có thẩm quyền xử lý hoặc đề nghị cơ quan công an hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho nạn nhân…
Nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới là người được trợ giúp pháp lý được trợ giúp pháp lý theo hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn để được bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (Điều 31, Điều 32, Điều 33 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017). Riêng trong lĩnh vực tham gia tố tụng, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyền thi hành tạm giữ, tạm giam có trách nhiệm phối hợp với các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho họ. Đặc biệt, với việc quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trên trong việc giải thích về quyền được trợ giúp pháp lý cho các đối tượng; thông báo, thông tin cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để có thể tiếp cận đối tượng kịp thời là một cơ chế quan trọng giúp giảm thiểu việc bỏ lọt những người thuộc diện được trợ giúp pháp lý, trong đó có nạn nhân bị bạo lực trên cơ sở giới. Đồng thời, với quy định về chỉ định bào chữa cho trẻ em thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý đã tạo cơ sở cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng này (Điều 41 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC- TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng).
Thứ hai, quy định về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình: Luật Bình đẳng giới năm 2006 và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định khái niệm, hành vi, điều cấm, biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý đối với các hành vi bất bình đẳng giới, bạo lực gia đình và bảo vệ nạn nhân của các hành vi trên. Các quy định trên là cơ sở để xác định hành vi bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới và là cơ sở để các văn bản pháp luật khác quy định các biện pháp cụ thể trong việc đấu tranh phòng, chống các hành vi này, bảm đảm phù hợp với các quy định của các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, trên cơ sở quy định mang tính nguyên tắc “Phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn pháp luật để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình” (Khoản 1, Điều 24 Luật phòng Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007) đã tạo cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách trợ giúp pháp lý cho đối tượng này.
Thứ ba, quy định về phòng, chống mua bán người: Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định: (1) Các khái niệm về “Bóc lột tình dục”, “Nô lệ tình dục”, “Cưỡng bức lao động” (Điều 2); (2) Các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống mua bán người (Điều 3); (3) Các biện pháp trong phòng, chống mua bán người; phát hiện, xử lý hành vi vi phạm pháp luật và tiếp nhận, xác minh, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân; (4) Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phòng, chống mua bán người. Đặc biệt, Điều 36 quy định nạn nhân được tư vấn pháp luật để phòng ngừa bị mua bán trở lại và được trợ giúp pháp lý để làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, nhận chế độ hỗ trợ, đòi bồi thường thiệt hại, tham gia tố tụng và các thủ tục pháp lý khác có liên quan đến vụ việc mua bán người. Trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Thứ tư, quy định về hình sự và tố tụng hình sự: Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2017 (sau đây gọi chung là Bộ luật hình sự năm 2015) có nhiều điều luật quy định liên quan đến răn đe, trừng phạt hành vi bạo lực trên cơ sở giới đủ yếu tố cấu thành tội phạm và bảo vệ nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chống lại các hành vi này. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Tình tiết phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc17 người đủ 70 tuổi trở lên; người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác… là các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (Điều 52); các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với các khung hình phạt tương ứng áp dụng đối với mức độ thương tật mà hành vi bạo lực gây ra cho nạn nhân (Từ Điều 134 đến Điều 139); tội hành hạ người khác (Điều 140); các tội khác liên quan đến chống bạo lực tình dục đối với phụ nữ và trẻ em (Từ Điều 141 đến Điều 147), riêng Bộ luật Hình sự năm 2015 có bổ sung tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); các tội mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt người (Điều 150 đến Điều 153); tội làm nhục người khác, vu khống (Điều 155, Điều 156); các tội xâm phạm chế độ hôn nhân gia đình, trong đó bao gồm các tội xuất phát từ yếu tố bạo lực gây ra, đủ sức cấu thành tội phạm có thể bị xử lý theo các tội tương ứng (Điều 181, Điều 182, Điều 185). Đặc biệt, Bộ luật quy định “tội xâm phạm quyền bình đẳng giới” (Điều 165) có tính chất mở rộng so với Điều 130 “Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ” (Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999).
Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định về việc nạn nhân trong các vụ án được bảo vệ đời tư thông qua quy định quyền của người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố có quyền “Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa” (Điều 56); quy định khi tiến hành khám người hay xem xét thân thể người để tìm chứng cứ quan trọng đối với vụ án phải do người cùng giới tiến hành và có người cùng giới chứng kiến, trong trường hợp cần thiết thì có bác sỹ tham gia… (Điều 194 và Điều 203). Vận dụng quy định trên, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới có cơ sở để được bảo vệ trong các vụ án hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng quy định cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý về quyền được trợ giúp pháp lý, nếu họ đề nghị trợ giúp pháp lý thì phải thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ (Điều 71); Trợ giúp viên pháp lý và luật sư (bao gồm cả luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, luật sư của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý) được tham với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại (Điều 84). Đây là các quy định mới bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý của người bị hại thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý.
Thứ năm, quy định về dân sự và tố tụng dân sự: Bộ luật dân sự năm 2015 có nhiều quy định liên quan đến việc chống lại các hành vi bạo lực, kể cả bạo lực trên cơ sở giới: (1) Quy định các nguyên tắc trong dân sự như nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ dân sự, không phân biệt giới tính (Điều 5); nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, cụ thể khi quyền dân sự của chủ thể bị xâm phạm (kể cả do hành vi bạo lực), chủ thể có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân sự của mình, buộc chấm dứt hành vi vi phạm, buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại (Điều 9); nguyên tắc không ai được dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực khi tham gia quan hệ dân sự, giải quyết các tranh chấp dân sự (Điều 12); (2) Quy định các quyền về nhân thân và tài sản của cá nhân, nghiêm cấm việc xâm phạm các quyền này, kể cả sử dụng vũ lực và khi các quyền này bị xâm phạm, chủ thể quyền có thể có thể lựa chọn các giải pháp bảo vệ quyền của mình (Chương III); (3) Quy định giao dịch vô hiệu trong trường hợp do bị lừa dối, đe dọa và người tham gia giao dịch đó có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (Điều 132 và Điều 137); (4) Quy định hạn chế năng lực hành vi dân sự xuất phát từ hành vi có tính chất bạo lực của người nghiện ma tuý hoặc chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình để bảo vệ tài sản cho người có liên quan (Điều 23).
Đồng thời, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Thẩm phán có trách nhiệm giải thích, hướng dẫn cho đương sự biết để họ thực hiện quyền yêu cầu trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý (Khoản 6 Điều 48). Đây là quy định bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho đương sự là đối tượng trợ giúp pháp lý trong vụ án dân sự.
Thứ sáu, quy định về trẻ em: Luật Trẻ em năm 2016 có các quy định bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực, bao gồm cả bạo lực trên cơ sở giới: (1) Quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với trẻ em, trong đó có các hành vi liên quan quan đến bạo lực; (2) Quy định các quyền của trẻ em, trong đó liên quan đến việc chống bạo lực đối với trẻ em; (3) Quy định riêng về trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt để có chính sách riêng hỗ trợ các đối tượng này, trong đó có một số đối tượng có nguy cơ bị bạo lực (Điều 10 Luật Trẻ em năm 2016). Về trợ giúp pháp lý, Luật trẻ em năm 2016 quy định trẻ em có quyền được trợ giúp pháp lý trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính (Điều 30).
4. Đánh giá về các quy định pháp luật của Việt Nam với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới
Như trên đã phân tích, pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nói riêng đã đáp ứng cơ bản yêu cầu của các Công ước CCPR, CRC, CEDAW mà Việt Nam là thành viên về trợ giúp pháp lý cho các đối tương cụ thể:
- Việt Nam có Hiến pháp quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; thể chế hóa Hiến pháp, các Bộ luật, luật tố tụng năm 2015 đã có các quy định bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, đương sự trong các vụ án.
- Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 là văn bản luật chuyên ngành quy định về trợ giúp pháp lý cho đối tượng thuộc diện trợ giúp pháp lý là người nghèo hoặc đối tượng yếu thế khác không có điều kiện thuê luật sư khi có các vấn đề pháp lý hoặc xuất phát từ mục tiêu bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội. Phần lớn các đối tượng như người thuộc hộ nghèo, người già, người khuyết tật, người nhiễm HIV, trẻ em, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người… cũng thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý theo pháp luật của một số nước (Ví dụ: Ấn Độ, Hoa Kỳ, Israel...).
Các đối tượng bắt buộc phải có được bào chữa thông qua trợ giúp pháp lý như người bị buộc tội, trẻ em bị tước quyền tự do cơ bản đã được quy định trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các Bộ luật, luật tố tụng năm 2015.
Phụ nữ được bảo đảm trợ giúp pháp lý bình đẳng với nam giới, không có sự phân biệt đối xử; một số quy định đặc thù về trợ giúp pháp lý cho phụ nữ trong khi thực hiện trợ giúp pháp lý để bảo đảm bình đẳng giới trong hoạt động này cũng không bị coi là “phân biệt đối xử” theo Công ước CEDAW.
Tuy nhiên, so với các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và Khuyến nghị 19 của Ủy ban CEDAW, quy định của pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới vẫn có một số bất cập sau:
- Pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ bạo lực trên cơ sở giới mà hành vi này mới được quy định một phần trong hành vi bạo lực gia đình, tập trung vào bạo lực chống lại phụ nữ nên chưa có cơ sở để Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 và các luật có liên quan có đầy đủ các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bạo lực.
- Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được quy định là đối tượng trợ giúp pháp lý riêng (được bảo vệ thông qua nhóm đối tượng là “nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình” và “nạn nhân của hành vi mua bán người” có khó khăn về tài chính (là chủ yếu) và thuộc các nhóm đối tượng khác) nên việc bảo vệ nhóm đối tượng này còn có mức độ nhất định. Các quy đinh trên mặc dù đáp ứng yêu cầu của Công ước CEDAW nhưng chưa được mở rộng theo tinh thần của Khuyến nghị 19, trong khi đây cũng là nhóm đối tượng yếu thế cần được trợ giúp pháp lý khi có các vướng mắc về pháp lý.
Đồng thời, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 quy định nạn nhân bạo lực gia đình có quyền được tư vấn pháp lý nhưng không quy định rõ cơ quan, tổ chức thực hiện, trình tự, thủ tục thực hiện, phạm vi thực hiện… để bảo đảm thực hiện quyền này.
Trên thực tiễn, do nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được quy định là đối tượng trợ giúp pháp lý riêng trong Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nên quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý cho đối tượng trên còn có một số bất cập: (1) Hoạt động trợ giúp chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu trợ giúp pháp lý của nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; (2) Vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình nói chung và nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới chưa được thống kê hàng năm nên chưa có đầy đủ số liệu phục vụ công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; (3) Nhiều người thực hiện trợ giúp pháp lý chưa được trang bị kỹ năng về trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới; (4) Các hoạt động trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới mới được lồng ghép trong các hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung, chưa có nhiều hoạt động đặc thù, thường xuyên, liên tục…
- Một số quy định của pháp luật về bạo lực trên cơ sở giới chưa đầy đủ nên chưa có cơ sở pháp lý cho việc xử lý các hành vi vi phạm này để bảo vệ đối tượng bị xâm hại. Ví dụ: pháp luật hình sự, dân sự, lao động chưa quy định rõ về hành vi quấy rối tình dục, đặc biệt là quấy rối ở nơi làm việc theo quy định của Khuyến nghị 19 là hành vi bạo lực trên cơ sở giới, trong khi trên thực tế đang diễn ra hành vi này với nạn nhân chủ yếu là phụ nữ và trẻ em gái. Do đó, chưa có cơ sở xử lý hành vi trên theo pháp luật hình sự, hành chính và chỉ có thể vận dụng các quy định hiện hành xử lý về hành vi vi phạm khác nếu đủ dấu hiệu của hành vi vi phạm (Ví dụ: xử lý theo các tội hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ôm với trẻ em, sử dụng người dưới 16 tuổi và mục đích khiêu dâm… nếu hành vi quấy rối tình dục đủ yếu tố cấu thành các tội trên), dẫn tới việc chưa có cơ chế bảo vệ hiệu quả phụ nữ và trẻ em gái chống lại hành vi quấy rối tình dục, trong đó có cả việc trợ giúp pháp lý cho các nạn nhân.
- Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, hôn nhân và gia đình chưa có quy định cụ thể về bảo đảm trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới. Do đó, chưa có cơ sở để thực hiện trợ giúp pháp lý hiệu quả cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới trong các lĩnh vực trên.
5. Một số đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở các phân tích nêu trên, để góp phần phòng, chống các hành vi bạo lực trên cơ sở giới và thúc đẩy trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:
1. Cần tăng cường nội luật hóa các Công ước CCPR, CRC, CEDAW và cụ thể hóa Khuyến nghị 19 của Ủy ban CEDAW về bạo lực trên cơ sở giới. Hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực quy định theo hướng quy định rõ về bạo lực trên cơ sở giới để làm cơ sở cho việc quy định trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới được hiệu quả.
Mặc dù Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đã có bước tiến bộ hơn so với Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thông qua việc quy định hai nhóm đối tượng độc lập liên quan chặt chẽ tới nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới (được bảo vệ thông qua nhóm đối tượng là “nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình” và “nạn nhân của hành vi mua bán người” có khó khăn về tài chính), tuy nhiên, để việc bảo vệ quyền được trợ giúp pháp lý của nhóm đối tượng này được đầy đủ hơn, cần có sự quy phạm hóa rõ ràng đối với nhóm đối tượng này.
2. Cần tăng cường truyền thông về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý nói riêng trong quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý; lồng ghép nội dung về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới trong các hoạt động trợ giúp pháp lý ở cơ sở (trợ giúp pháp lý lưu động, sinh hoạt câu lạc bộ ở địa phương) để thay đổi nhận thức của cán bộ, công chức và người dân, thúc đẩy công tác trợ giúp pháp lý cho các đối tượng trên tại cơ sở.
3. Cần tăng cường sự chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương đối với địa phương, tăng cường sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh đối với các Sở, ban, ngành; sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành có liên quan ở Trung ương, giữa Sở Tư pháp, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước với các Sở, ban, ngành ở địa phương trong việc trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực gia đình nói riêng và bạo lực trên cơ sở giới nói chung.
4. Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp cấp tỉnh cần thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho cho người thực hiện trợ giúp pháp lý về kỹ năng trợ giúp pháp lý trong các vụ việc liên quan đến bạo lực trên cơ sở giới, nhất là kỹ năng tư vấn và tham gia tố tụng trong vụ việc bạo lực trên cơ sở giới, cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới.
5. Trong điều kiện nguồn viện trợ ODA cắt giảm mạnh từ sau năm 2010, ngân sách nhà nước cần bảo đảm việc hỗ trợ kinh phí cho các địa phương trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới nói riêng; bảo đảm cơ sở vật chất để Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước có nơi làm việc, địa điểm tiếp đối tượng riêng và trang thiết bị, phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác.
6. Cần tăng cường hợp tác giữa Bộ Tư pháp với các tổ chức quốc tế (UNWomen, UNICEF, UNODC, UNAIDS…) và các nước trong việc trợ giúp pháp lý trong các vụ việc bạo lực trên cơ sở giới, cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới thông qua nhiều hình thức: Hỗ trợ hoàn thiện thể chế về trợ giúp pháp lý trong các vụ việc bạo lực trên cơ sở giới và cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; hỗ trợ thực hiện các vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới; hỗ trợ các hoạt động trợ giúp pháp lý đặc thù cho nạn nhân tại các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; hỗ trợ các nguồn lực cho các hoạt động nâng cao năng lực cho người quản lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực trên cơ sở giới…/.
Ths. Nguyễn Thị Pha - Cục Trợ giúp pháp lý
[8] Khoản 1 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006: Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
[9] Khoản 2 Điều 5 Luật Bình đẳng giới năm 2006: Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
[10] Khoản 2 Điều 1 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007: Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình.
[11] Điều 2 Luật Phòng chống bạo lực gia đình năm 2007:
[13] http://tbinternet.ohchr.org/_layouts/TreatyBodyExternal/Treaty.aspx?CountryID=192&Lang=EN: Công ước quốc tế về kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR); Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị (CCPR); Công ước về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); Công ước quốc tế về loại bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD); Công ước về quyền trẻ em (CRC); Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD); Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (CAT).