Những xu hướng toàn cầu trong trợ giúp pháp lý

20/02/2024
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Trợ giúp pháp lý có lịch sử hơn 500 năm, khởi nguồn từ nước Anh. Hệ thống trợ giúp pháp lý mỗi nước có những đặc điểm riêng biệt, ngay cả ở nước Anh cũng có 3 mô hình trợ giúp pháp lý hoàn toàn độc lập và đặc thù. Mỗi nước phát triển hệ thống của mình phù hợp với điều kiện pháp lý, xã hội, chính trị và kinh tế cụ thể và có những mối quan tâm riêng. Tuy nhiên, trợ giúp pháp lý các nước đều có chung mục tiêu là giúp người không có điều kiện thuê dịch vụ pháp lý có thu phí được tiếp cận việc xét xử công bằng hoặc trong trường hợp công lý đòi hỏi.

Định nghĩa trợ giúp pháp lý ở các nước cũng không hoàn toàn giống nhau. Bài viết này sử dụng định nghĩa trong tác phẩm Niên giám quốc tế mới về trợ giúp pháp lý của tác giả Peter Soar, xuất bản năm 2001: "trợ giúp pháp lý là cung cấp dịch vụ pháp lý cho một người trong lĩnh vực tư pháp cụ thể mà người đó không có khả năng chi trả chi phí, khi công lý đòi hỏi phải có sự trợ giúp từ Nhà nước"..  Nghiên cứu hoạt động trợ giúp pháp lý nhiều nước trên thế giới có thể khái quát một số xu hướng trợ giúp pháp lý trên thế giới như sau:
1. Hiện thực hóa quyền của người dân. Nhu cầu đối với hệ thống trợ giúp pháp lý hiệu quả để bảo vệ nhân quyền và phiên tòa công bằng.
 Có một nhận thức mang tính quốc tế, đó là tiếp cận công lý là một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Hiến pháp nhiều nước quy định bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, quyền hiến định này không phải lúc nào cũng được thực thi trên thực tế vì nhiều lý do như là thiếu luật sư hay thiếu kinh phí của Nhà nước để chi trả. Có một phong trào đang phát triển (ví dụ như ở Nga và Brazil) xác định những yếu kém này và cải tiến những nguồn lực để các quyền hiến định trở thành hiện thực.
Ở Châu Âu, đã có 45 nước ký kết bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản (Công ước Châu Âu). Trong đó có 8 nước thuộc liên bang Xô viết cũ đã gia nhập liên minh Châu Âu năm 2004.
Điều 6 Công ước Châu Âu ghi nhận quyền đối với phiên tòa xét xử công bằng, bao gồm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự "nếu bị cáo không có khả năng trả dịch vụ pháp lý thì được trợ giúp miễn phí khi công lý đòi hỏi". Khác với tố tụng hình sự, không có quyền nào được quy định trong lĩnh vực dân sự mặc dù Tòa án Châu Âu đã đưa ra nguyên tắc. Tùy thuộc vào tính phức tạp của vụ việc và khả năng tự bảo vệ của bị cáo có thể có sự trợ giúp pháp lý trong một số điều kiện cụ thể.
Cách mà mỗi quốc gia ký kết thực hành các chuẩn mực là khác nhau. Những nước thuộc liên bang Xô Viết cũ có hệ thống chỉ định luật sư bắt buộc trong một số điều kiện nhất định, nhưng luật sư được chỉ định có thể không phải là người hành nghề luật hình sự, do đó trợ giúp pháp lý được cung cấp không hiệu quả và thích hợp.
Những nước mới gia nhập liên minh Châu Âu gần đây hoặc sắp gia nhập có sự thay đổi đáng kể trong việc lập pháp và cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý để đáp ứng chuẩn trợ giúp pháp lý cao hơn đã tồn tại ở Tây Âu (mặc dù không đồng bộ). Rumani, cộng hòa Séc và Bungary gần đây đã thông qua một số biện pháp để mở rộng trợ giúp pháp lý cho bị cáo trong tố tụng hình sự. Ở những nước này và các nước Đông Âu khác quyền trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự và hành chính cũng đã được mở rộng.
2. Ngày càng có nhiều nước tham gia cung cấp, quản lý trợ giúp pháp lý
Một số nước đã từng có hoặc đang có hệ thống trợ giúp pháp lý do giới luật sư quản lý. Việc này dường như không thông dụng và Chính phủ đã tăng ngân sách và thành lập hệ thống trợ giúp pháp lý độc lập và sau đó tiếp tục những chiến lược để phát triển hoạt động này.
Nhiều nước khi thiết lập hệ thống trợ giúp pháp lý thì Nhà nước cũng đưa ra những nguyên tắc cơ bản cho hoạt động này.
Nhiều nước Châu Âu triển khai mô hình này và nước Anh có lẽ là một ví dụ điển hình về vai trò của trợ giúp pháp lý trong việc thúc đẩy công lý. Mô hình trợ giúp pháp lý hiện nay được bắt đầu từ khi có Luật tiếp cận công lý năm 1999. Theo Đạo luật này, Ủy ban Trợ giúp pháp lý được thành lập, là một cơ quan công, điều hành hệ thống trợ giúp pháp lý theo những nguyên tắc được quy định trong Luật. Chiến lược của Chính phủ, do Ủy ban thượng viện xây dựng, bao gồm cả những đề xuất phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý và kế hoạch hợp tác của Ủy ban hoạch định những phương án mà theo đó mục đích của trợ giúp pháp lý phải đạt được.
Cách điều phối tương tự cũng được một số nước áp dụng. Chẳng hạn: Phần Lan (hoạt động trợ giúp pháp lý hoạt động theo Luật Trợ giúp pháp lý và do Văn phòng trợ giúp pháp lý quản lý). Ai - len (Hội đồng Trợ giúp pháp lý là một cơ quan độc lập quản lý hệ thống trợ giúp pháp lý). New Zealand (Cục Trợ giúp pháp lý quản lý hệ thống trợ giúp pháp lý, Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ định). Nam Phi (Hội đồng Trợ giúp pháp lý quản lý hệ thống trợ giúp pháp lý).
Hệ thống liên bang có những sự đa dạng của mình. Chính phủ bang chia sẻ trách nhiệm với Nhà nước và cơ quan trợ giúp pháp lý độc lập, Australia là một ví dụ điển hình. Tuy nhiên, ở Canada, Chính phủ cấp kinh phí cho trợ giúp pháp lý nhưng các tỉnh và các vùng lãnh thổ tự điều hành kế hoạch của riêng mình. Ở Mỹ, trách nhiệm trợ giúp pháp lý được chia sẻ cho các tổ chức mà không có phương thức thống nhất để cung cấp dịch vụ này.
Mặc dù hiện tại không có kế hoạch cải cách trợ giúp pháp lý ngay ở Thổ Nhĩ Kỳ, đây là một nước mà có thể hướng tới một mô hình mà Nhà nước có vai trò nhất định, đặc biệt, nếu nước này trở thành thành viên của Liên minh Châu Âu. Nước này có hệ thống trợ giúp pháp lý hạn chế hoạt động từ năm 1992, trợ giúp cho bị cáo trong lĩnh vực hình sự. Trong khi Chính phủ tài trợ tiền cho hoạt động trợ giúp pháp lý thì hoạt động này lại do Đoàn luật sư địa phương điều hành thông qua một số văn phòng trợ giúp pháp lý. Như vậy là không có dịch vụ đồng nhất, có sự bất ổn về việc việc thanh toán và chất lượng dịch vụ và thiếu tính bền vững cũng như trách nhiệm giải trình. Kết quả, một nhu cầu đặt ra là Chính phủ phải phát triển chính sách về trợ giúp pháp lý chứ không thể phó mặc cho Đoàn luật sư.
3. Nghiên cứu nhu cầu tư vấn và dịch vụ pháp lý - động thái tiến đến chính sách dựa trên căn cứ thực tế.
Có một mối quan tâm đang tăng lên đối với việc nghiên cứu nhu cầu tư vấn pháp lý và trợ giúp pháp lý. Ở Anh, tiến sỹ Hazel Genn, Trường Đại học London đã tiến hành một số nghiên cứu cơ bản. Nghiên cứu đó chỉ ra rằng quanh chúng ta tồn tại một thứ văn hóa đó là "văn hóa bồi thường" và tìm kiếm việc tranh tụng để giải quyết vấn đề, trong số 20 người được khảo sát thì có một người có những vướng mắc pháp luật nhưng không tìm cách giải quyết, nguyên nhân chủ yếu họ không nghĩ rằng tất cả mọi thứ đều có thể giải quyết hoặc không biết làm thế nào để nhận sự giúp đỡ. Trên 35% số người được khảo sát thì tự giải quyết mà không tìm đến sự giúp đỡ nào. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một vấn đề dường như là nguyên nhân gây ra những vướng mắc khác đó là vấn đề việc làm, vướng mắc này là đầu mối của các vướng mắc khác (tiền, người tiêu dùng hoặc tài sản).
Phương pháp của tiến sỹ Genn được phát triển hơn nữa vào năm 1999. Một nghiên cứu khác: nguyên nhân của hành động: luật dân sự và tư pháp xã hội (Ủy ban dịch vụ pháp lý năm 2004) chỉ ra rằng một trong số 5 vướng mắc có thể giải quyết (vướng mắc mà giải pháp pháp lý là thích hợp), không có động thái nào được thực hiện. Nghiên cứu này ngày càng được sử dụng nhiều khiến Chính phủ quan tâm đến tương lai của trợ giúp pháp lý, việc này có ảnh hưởng đến kế hoạch của Hội đồng Dịch vụ pháp lý.
Nước Anh không có phương tiện duy nhất nào trong việc nỗ lực tìm kiếm thêm các tình huống cần tư vấn pháp luật và các loại tư vấn và giúp đỡ tốt nhất cho mọi người trong những tình huống này.
Ở Australia năm 2004, phòng điều tra Thượng viện đã thảo luận về việc thiếu thông tin, nội dung và số lượng những nhu cầu chưa được đáp ứng. Ở Canada, Chính phủ đã tài trợ cho một nghiên cứu cơ bản vài năm gần đây để kiểm tra nhu cầu không được đáp ứng trong lĩnh vực hình sự và một vài vấn đề dân sự. Trong vụ việc hình sự, nghiên cứu chỉ ra rằng một số lượng đáng ngạc nhiên bị cáo đã không được bào chữa trước tòa và gặp khó khăn khi tiếp cận với dịch vụ trợ giúp pháp lý. Kết quả là kế hoạch ngân sách từ năm 2003 đến năm 2006 đã dành cho các vùng lãnh thổ để đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự. Ở New Zealand, Cục Dịch vụ pháp lý đã nghiên cứu những nhu cầu chưa được đáp ứng và sử dụng thông tin này để ra quyết định về việc thiết lập, cấp ngân sách cho dịch vụ này.
4. Sự phát triển của tiêu chuẩn chất lượng và hệ thống
Việc tìm kiếm cách để bảo đảm cho ngân sách công dùng cho trợ giúp pháp lý mang lại chất lượng dịch vụ cao do luật sư thực hiện đã làm nổi lên một xu hướng rõ ràng trong những năm gần đây. Nhiều nước đã xây dựng mô hình riêng của mình theo cách này và có một số sáng kiến hấp dẫn.
Anh và Scotland đều thử nghiệm cách để bảo đảm chất lượng tư vấn cao cho khách hàng. Anh có lẽ là nước có hệ thống trợ giúp pháp lý phức tạp nhất đã phát triển mô hình này 10 năm nay. Có một số loại như:
- Luật sư tư vấn chỉ thực hiện trợ giúp pháp lý nếu họ ký hợp đồng với Hội đồng Dịch vụ pháp lý. Hợp đồng thực hiện vụ việc trong một lĩnh vực pháp luật nhất định (ví dụ, hình sự hoặc luật hôn nhân gia đình) và công việc này chỉ được giao cho những công ty có đủ những điều kiện nhất định.
- Những điều kiện bao gồm người giám sát có kinh nghiệm thích hợp và những lĩnh vực pháp luật đáp ứng được yêu cầu của Hội đồng.
- Công ty hoặc nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý khác phải có điểm chất lượng với mức chuẩn về chuyên môn. Tiêu chuẩn chủ yếu liên quan đến người được ủy nhiệm quản lý, ví dụ như: có các hệ thống bảo đảm chất lượng để bảo đảm có những vụ việc đạt chất lượng tốt và quản lý hoạt động tốt.
- Nhà cung cấp làm việc theo hợp đồng phải được kiểm toán hàng năm để bảo đảm rằng những điều kiện mà Hội đồng đặt ra đều được đáp ứng. Những Công ty có kết quả kiểm toán không tốt sẽ mất hợp đồng.
Việc kiểm toán cụ thể đã thể hiện một điều không thích hợp với giới luật sư, hiện tại nó đã được thay thế bằng việc kiểm tra của đồng nghiệp, những người hành nghề độc lập do Hội đồng trả chi phí, kiểm tra hồ sơ để đánh giá xem công việc có được thực hiện theo đúng tiêu chuẩn không. Hệ thống đánh giá chất lượng này có vẻ phức tạp và tốn kém, không như mong muốn của cơ quan trợ giúp pháp lý. Cơ quan này dự kiến đặt ra yêu cầu cao hơn đối với người hành nghề trợ giúp pháp lý hơn là người hành nghề pháp lý tư nhân.
Ở Scotland, hệ thống trợ giúp pháp lý phát triển mạnh hơn, luật sư tư vấn thực hiện trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự phải đăng ký với Hội đồng Trợ giúp pháp lý để chứng minh rằng đáp ứng các yêu cầu về thực hành hành chính và là đối tượng kiểm tra của đồng nghiệp về vụ việc ngẫu nhiên trong hồ sơ trợ giúp pháp lý.
Ở Bắc Ireland, phương pháp đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý không được xác định, mặc dù nó đã được tranh luận, đây cũng là vấn đề của Hà Lan. Ở New Zealand, những người hành nghề tư nhân phải chứng minh được rằng họ có quá trình đào tạo và có kinh nghiệm nhất định (về số vụ việc đã thực hiện, số lần đại diện, bào chữa trước tòa) trước khi họ tham gia trợ giúp pháp lý trong từng loại vụ việc cụ thể. Nếu thiếu những kinh nghiệm này họ phải làm việc dưới sự giám sát của người có nhiều kinh nghiệm hơn.
Nam Phi có cách tiếp cận chất lượng dịch vụ hơi khác. Đào tạo đóng một vai trò quan trọng và có những cách đánh giá chất lượng riêng cho từng loại vụ việc. Việc giám sát do cơ quan độc lập thực hiện (đánh giá độc lập bởi các văn phòng tư pháp khu vực); quan sát của đồng nghiệp và một hệ thống các phản hồi của khách hàng về dịch vụ họ nhận được và phòng tiếp nhận khiếu nại của khách hàng ở Trung tâm tư pháp, phòng này dành cho khách hàng gửi đơn khiếu nại đến. Những khách hàng này muốn thúc đẩy việc hiểu nhu cầu của khách hàng hơn nữa và thúc đẩy dịch vụ mà trợ giúp pháp lý thực hiện.
Ở Mỹ, cơ quan dịch vụ pháp lý là nhà cung cấp dịch vụ pháp lý chủ yếu cho người nghèo. Gần đây cơ quan này tham gia vào việc thảo luận xác định và giám sát chất lượng, có tính đến việc đưa ra các tiêu chí về chất lượng. Việc này đã được thực hiện thử nghiệm với việc áp dụng hạn chế số vụ việc trợ giúp.
5. Những hạn chế về tài chính đối với việc thực hiện trợ giúp pháp lý
Đây là vấn đề của nhiều nước, một số nước đã cắt giảm ngân sách dành cho trợ giúp pháp lý, thường thì vẫn không đáp ứng được hết nhu cầu của người dân và sức ép về điều tiết kinh phí thường thu hẹp phạm vi, nội dung, quy mô của dịch vụ được cung cấp. Việc này thường được thực hiện theo 2 cách - điều kiện và phạm vi trợ giúp.
Thứ nhất, trợ giúp pháp lý chỉ dành cho những người ít có khả năng thuê luật sư tư thông qua việc kiểm tra điều kiện. Hầu hết các nước đều có phương tiện để kiểm tra điều kiện tài chính để nhận trợ giúp pháp lý (mặc dù việc này là không cần thiết đối với vụ việc hình sự).
Ngoài ra, hầu hết các nước có những cuộc kiểm tra không có tính chất kiểm tra tài chính, ví dụ thông qua bản chất của vụ việc hoặc kiểm tra về tính hợp lý của vụ việc để xem xét vụ việc đề nghị trợ giúp có xứng đáng nhận trợ giúp pháp lý hay không.
Một số nước cũng giới hạn trợ giúp pháp lý đối với một số đối tượng (ví dụ người mất năng lực hành vi, người tàn tật hoặc người chưa thành niên).
Liên quan đến việc kiểm tra điều kiện trợ giúp, không có một thước đo chuẩn nào, điều kiện tài chính của mỗi nước hoàn toàn khác nhau. Ở Hà Lan, ước tính có khoảng 48% dân số có đủ điều kiện trợ giúp pháp lý, trong khi đó ở Colombia, đối tượng trợ giúp pháp lý phải là người nghèo túng nhất và trợ giúp pháp lý dân sự ở Nhật Bản chỉ dành cho người nghèo. Ở một số nước, người được trợ giúp có thể phải đóng góp chi phí, tùy thuộc vào điều kiện tài chính, cụ thể là trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự. Một số nước (như New Zealand) chi phí trợ giúp pháp lý là hỗn hợp (nghĩa là cả người được trợ giúp và Nhà nước trả), mặc dù việc này không phổ biến. Có những quy tắc để lấy thu hồi chi phí trợ giúp, do đó, người không được trợ giúp pháp lý thua kiện sẽ phải trả chi phí trợ giúp pháp lý hoặc quy tắc quỹ trợ giúp pháp lý sẽ thu hồi tiền từ một khoản bồi thường nhất định do khách hàng thắng kiện nộp.
Phạm vi trợ giúp pháp lý cũng được sử dụng như một biện pháp hạn chế đối tượng trợ giúp pháp lý. Một số lĩnh vực pháp luật không được trợ giúp pháp lý trong bất kỳ trường hợp nào (ví dụ hiện nay ở Anh là những vụ việc thương tổn cá nhân). Trợ giúp pháp lý luôn luôn dành cho một số loại vụ việc hình sự, mặc dù có một số hạn chế đối với tính nghiêm trọng của vụ việc. Khách hàng có thể phải kiểm tra điều kiện tài chính hoặc phải trả chi phí. Vụ việc hôn nhân gia đình thường không được trợ giúp pháp lý và thường có sự hạn chế trợ giúp pháp lý cho những vụ việc dân sự.
Ở Anh, nơi mà ngân sách dành cho trợ giúp pháp lý bị cắt giảm thì số tiền dành cho trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực dân sự được xác định trên cơ sở số tiền dành cho trợ giúp pháp lý trong lĩnh vực hình sự. Việc thắt chặt tài chính khiến Hội đồng Dịch vụ pháp lý phải tập trung nguồn lực cho những vụ việc cần thiết hơn và phải tìm kiếm các phương án giải quyết vụ việc khác nhau. Giải quyết bằng con đường tòa án tốn kém, do đó không nên khuyến khích việc kiện tụng, trừ khi đó là cách giải quyết cuối cùng. Kết quả là việc giải quyết bằng biện pháp thay thế khác sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn. Nhiều nước như Mỹ, Canada, Úc cũng có tình trạng tương tự, những nước này cũng áp dụng việc kiểm tra điều kiện nghiêm ngặt để dành ngân sách cho những người nghèo nhất trong xã hội.
Ở Thụy Điển và Đức có ảnh hưởng của bảo hiểm chi phí, hoặc là một chính sách đơn lẻ hoặc chính sách cho hộ gia đình hoặc bảo hiểm khác. Trợ giúp pháp lý được thiết kế để thực hiện chế độ bảo hiểm này và trợ giúp pháp lý không giúp những vụ việc đã được bảo hiểm pháp lý chi trả. Ở Anh, thỏa thuận về phí có điều kiện (sự kiện bảo hiểm) đã là một vấn đề gây tranh cãi về hỗ trợ cho vụ việc dân sự.
6. Phát triển phương pháp mới thực hiện tư vấn và dịch vụ pháp lý.
Nghiên cứu ở Anh và một số nơi khác chỉ ra rằng ngày càng có nhiều nhu cầu tư vấn và dịch vụ pháp lý hơn những gì mà những nhà tư vấn là luật sư hiện nay đáp ứng được. Ở Anh có một số khu vực có vùng "sa mạc tư vấn", người dân không thể tìm được luật sư trợ giúp pháp lý có chuyên môn về lĩnh vực pháp luật mà họ cần tư vấn.
Sự kết hợp giữa áp lực về chi phí và nhu cầu trợ giúp pháp lý tăng lên khiến nhiều tổ chức trợ giúp pháp lý phải tìm cách để thông báo và tư vấn cho nhân dân về quyền của họ. Ở những nước phương Tây, nơi có hệ thống trợ giúp pháp lý hình thành lâu đời, như Anh, Canada, New Zealand và Úc đã chuyển từ cách trợ giúp pháp lý cho đại chúng sang trợ giúp theo kế hoạch đã định trước, có mục đích cho những người thực sự có nhu cầu.
Kinh nghiệm của Anh là điển hình cho xu hướng này, khác xa mô hình quan hệ trực tiếp giữa luật sư và khách hàng. Công việc này được chuyển cho bộ phận tình nguyện (các tổ chức phi Chính phủ), họ có những chuyên gia cần thiết. Mô hình này cũng kiểm nghiệm những thuận lợi và không thuận lợi của dịch vụ pháp lý của những luật sư được trả lương (trong lĩnh vực dịch vụ hình sự) hơn là lĩnh vực hành nghề tư nhân. Văn phòng dịch vụ pháp lý đã thiết lập một đường dây dịch vụ quốc gia, đường dây này tư vấn miễn phí có chất lượng chuyên môn về phúc lợi, nợ nần và giáo dục cũng như về các lĩnh vực khác. Một trang web cung cấp thông tin về dịch vụ tư vấn địa phương và dịch vụ pháp lý và giúp người dân tự tiếp cận với quyền trợ giúp pháp lý của họ cũng như tiếp nhận thông tin về các lĩnh vực khác nhau. Giáo dục người dân hiểu về quyền của họ và cung cấp thông tin đôi khi được thực hiện theo hướng giúp người dân tránh được những vướng mắc phải cần có trợ giúp pháp lý. Văn phòng dịch vụ pháp lý hiện nay đang thử nghiệm những biện pháp để nâng cao hiệu quả hợp tác giữa nhiều nhà tài trợ và nhà cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý thông qua những Trung tâm mới và mạng lưới làm việc.
Các nước khác cũng đang tìm kiếm những phương thức mới để đáp ứng nhu cầu tư vấn và dịch vụ pháp lý. Ở Úc, những Hội đồng Trợ giúp pháp lý địa phương tư vấn miễn phí qua điện thoại và giới thiệu đối tượng đến luật sư và cung cấp những tài liệu giáo dục pháp luật cho cộng đồng. Một hướng dẫn mới về Luật gia đình cung cấp thông tin về luật và các dịch vụ giải quyết những vướng mắc về hôn nhân gia đình. Ở Canada, một số tỉnh và vùng lãnh thổ đã sáng tạo một số hình thức trợ giúp pháp lý mới để giảm thiểu nguồn lực - bao gồm qua điện thoại và máy tính cung cấp thông tin pháp lý và dịch vụ giáo dục pháp luật cho cộng đồng.
Cơ quan Dịch vụ pháp lý New Zealand tài trợ cho việc cung cấp thông tin, giáo dục pháp luật và xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử thông qua trang web của Cơ quan www.lsa.govt.nz. Trang web này cũng có những nội dung giáo dục pháp luật về những lĩnh vực: bạo lực trong gia đình, pháp luật nhập cư, trợ giúp pháp lý và bồi thường tai nạn.
Phần Lan cũng đã mở rộng dịch vụ tư vấn pháp lý qua điện thoại, dịch vụ này do các luật sư trợ giúp pháp lý công của các văn phòng trợ giúp pháp lý địa phương thực hiện, một số vụ việc được chuyển cho các tổ chức khác.
Ở Mỹ, Hiệp hội Dịch vụ pháp lý có một chương trình tài trợ cho dự án giúp người dân tiếp cận với dịch vụ pháp lý thông qua công nghệ mới hoặc internet, người dân có thể tự tìm hiểu thông tin, do đó, có thể tự đại diện, bào chữa cho mình. Phòng chát trực tuyến có thể giúp khách hàng thảo luận vụ việc của mình hoặc nhận sự trợ giúp.

Bình An, Cục Trợ giúp pháp lý

 

Xem thêm »