11/09/2017
Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
VỊ TRÍ, VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAYTGPL ở nước ta ra đời khá muộn so với lịch sử nền tư pháp Việt Nam. Hoạt động này được nghiên cứu từ năm 1995 và ra đời vào những năm cuối của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những thành tựu phát triển của những năm đầu đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công của những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của dịch vụ pháp lý. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một tăng đã trở thành động lực quan trọng mang tính quyết định thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động TGPL.Cho đến nay, 20 năm hình thành và phát triển, công tác TGPL đã đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong giúp đỡ về mặt pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi), qua đó đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác này. Đây là một trong những Luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ban hành nhằm triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 và thay thế Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11. Giai đoạn tiếp theo, cần phải tiếp tục truyền thông mạnh mẽ về vị tri, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay để nhiều người biết về quyền được TGPL, tổ chức TGPL... để tìm đến và sử dụng dịch vụ này.
Bài viết này tác giả xin phân tích một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như sau:
1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, Nhà nước có trách nhiệm là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật, phải quan tâm đến người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để đưa pháp luật đến với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội và đưa họ vào đời sống nhà nước và pháp luật để pháp luật thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng phải quan tâm, chú trọng hơn nhằm tăng cường các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của nhóm dân cư này, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, thực thi trên thực tế nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay nội dung “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” có yêu cầu mới là Nhân dân không chỉ chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ đại diện, mà còn từng bước thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, đó sẽ là cơ sở, là tiêu chí để Nhân dân kiểm soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, chính Nhà nước phải là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm cho người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội có được chính sách pháp luật bình đẳng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Từ đó, đặt ra yêu cầu TGPL phải giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nâng cao năng lực, tự mình tham gia quyết định các công việc chung; kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, bảo đảm để cho “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” không những được ghi nhận trong Cương lĩnh, Hiến pháp và được thể chế trong các đạo luật mà còn phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đến với mọi người, đặc biệt là người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương để cho quyền lực nhà nước thật sự là của Nhân dân, được Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền.
Vì vậy, TGPL cần phải tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa để đưa pháp luật đến với người nghèo, những người thuộc nhóm yếu thế để họ được thụ hưởng giá trị tiến bộ mà pháp luật mang lại. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi TGPL phải tồn tại và hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức pháp luật của người nghèo và các nhóm người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền và thực hiện các nghĩa vụ trách nhiệm của công dân.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo dục ý thức pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nước và xã hội và các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những hành vi được phép làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm bắt được nội dung pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội.
TGPL trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn giúp làm sáng tỏ nguyên tắc Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Thông qua hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nhận thức được vị trí, vai trò của mình trước pháp luật; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.
Tóm lại, TGPL giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội thấy được pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nó vừa là biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa góp phần thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, TGPL là một trong những khâu làm hoàn chỉnh hơn vai trò của ngành Tư pháp từ việc xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật để đưa pháp luật vào đời sống xã hội có hiệu quả.
2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã ghi nhận “Quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật và quyền được bào chữa”; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ghi nhận “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài phán và có quyền được hưởng một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào chữa, ngay cả khi họ không có điều kiện chi trả”. Bên cạnh đó, các quyền con người, quyền công dân trong từng lĩnh vực được tiếp tục khẳng định trong nhiều công ước của Liên Hợp quốc. Ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu hoặc khuyến khích các quốc gia ban hành các đạo luật để bảo đảm quyền con người, quyền công dân... Việc Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người, đặt ra yêu cầu Nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền đó, hạn chế giàu nghèo, kiểm soát được các tiêu cực mới phát sinh. Nhà nước phải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người nghèo và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình đẳng với các chủ thể khác trong tham gia đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước phải có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhóm người này, đồng thời kiểm soát được chất lượng các dịch vụ này bảo đảm công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác trong xã hội.
Do đó, TGPL hình thành và phát triển nhằm góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức, bất công, tôn trọng nhân quyền. Giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, khơi dậy và phát huy tiềm năng con người, coi con người là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đây là một chính sách góp phần bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của người nghèo, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không chỉ thực hiện trên thực tế quyền con người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bởi vì họ là nhóm đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn ai hết, người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội phải được quan tâm, giúp đỡ. Có như vậy, mới phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mới bảo đảm để tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo lập công bằng, bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể.
3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”;“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, tức là phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng, như vậy vai trò của người bào chữa trong phiên tòa ngày càng quan trọng, nếu không có người bào chữa tham gia thì không thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và khó có phiên tòa công bằng. Như vậy, đội ngũ người bào chữa nói chung cần được tăng cường hơn nữa nhằm đáp ứng nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án và quyền bào chữa theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hơn nữa, một trong những cách thức để tổ chức thi hành những quy định mới về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tư pháp là sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và huy động tối đa nguồn lực xã hội để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu TGPL cho người nghèo, người có công với cách mạng, đối tượng yếu thế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền công dân, góp phần xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ.
Đồng thời, qua quá trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động TGPL cũng sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự. Hơn nữa, góp phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Đồng thời, công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ động, nâng cao ý thức thực hiện trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất là của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong việc TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
4. Vị trí, vai trò TGPL công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội
Trong những năm qua một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm là công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đây là một quyết sách lớn để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác này đã được triển khai khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, y tế, giáo dục... Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn diện, bền vững và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội trên thực tế, đặt ra yêu cầu TGPL phải trở thành một nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội. Có ý nghĩa giảm nghèo về mặt pháp luật, TGPL đóng vai trò là cầu nối để người dân nhận thức và thực hiện các chính sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho họ hiệu quả, đồng thời giúp chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà nước càng trở nên toàn diện hơn.
Do đó, TGPL là một bộ phận cấu thành trong tổng thể giải pháp xóa đói, giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, là một chính sách lớn trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Việc thành lập tổ chức TGPL miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác ở Việt Nam xuất phát từ chủ trương xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy đòi hỏi công tác này cần phải lấy người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác làm trung tâm cho mọi chính sách và hoạt động của mình.
5. Vị trí, vai trò TGPL trong thị trường dịch vụ pháp lý
Trong thị trường dịch vụ pháp lý nói chung, luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư là một bộ phận giữ vai trò lớn bên cạnh các thiết chế của Nhà nước và xã hội khác là Trung tâm TGPL nhà nước, Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp, chính trị - xã hội; luật gia, chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp... Tính đến hết tháng 6 năm 2017, cả nước có 3.757 tổ chức hành nghề luật sư với 11.396 luật sư, tuy nhiên số lượng luật sư này so với tổng dân số trên cả nước còn rất thấp và có sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị và khu vực miền núi, trung du. Tính trên tổng dân số 95 triệu thì trung bình hơn 8.000 người dân mới có 01 luật sư. Tỷ lệ này là quá nhỏ so với nhu cầu tiếp cận và sử dụng pháp lý của người dân, đặc biệt là người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Có thể thấy số lượng luật sư ở nước ta hiện nay chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, chỉ khoảng trên 20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư chưa đủ để bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư mà phải mời các luật sư ở địa phương khác, do đó nhiều vụ án phải tạm hoãn, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Sự thiếu vắng luật sư trong nhiều vụ án hình sự (khoảng 80%) đã không bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án.
Khi mà đội ngũ luật sư còn quá ít, chưa đủ số lượng để đáp ứng được nhu cầu pháp lý trong dân số, hơn nữa việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là hoạt động có thu phí thì người nghèo, người có công với cách mạng, người yếu thế khác trong xã hội… khó có thể tiếp cận được dịch vụ của luật sư. Họ thường không có điều kiện về kinh tế để tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu phí nên trong nhiều trường hợp không được tư vấn pháp luật hoặc không có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại. Xuất phát từ yêu cầu trên, tổ chức TGPL của nhà nước ra đời và phát triển đã tạo cơ chế cần thiết để người nghèo và người có công với cách mạng, người yếu thế khác trong xã hội được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình để tham gia vào các quan hệ xã hội, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện công bằng xã hội.
6. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và khắc phục hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và việc hội nhập với nền kinh tế thế giới, mặt tích cực là thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển nhưng đi kèm với nó là một số biểu hiện tiêu cực như gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời đưa đến những hệ lụy khác trong xã hội. Những vấn đề đó, nhất là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, khoảng cách về kinh tế ngày càng cách xa thì tất yếu sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các điều kiện y tế, giáo dục, văn hóa…, trong đó có việc tiếp cận các dịch vụ pháp lý. Hơn nữa, từ các vấn đề của nền kinh tế đã dẫn đến phát sinh những mối quan hệ trong xã hội đòi hỏi sự điều chỉnh của pháp luật.
Mặt khác, trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện, số lượng văn bản pháp luật ngày càng nhiều và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung thì việc người dân tiếp cận với pháp luật để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, xử sự phù hợp trong các quan hệ xã hội không phải dễ dàng, do đó TGPL của Nhà nước cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng và các nhóm người yếu thế khác là yêu cầu khách quan và cần thiết. Hơn nữa, thông qua hoạt động TGPL cũng có thể phát hiện ra các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời, các vụ việc kiến nghị công vụ cũng góp phần tăng thêm vai trò, trách nhiệm cho cơ quan nhà nước khi thực thi công vụ.
7. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện
Cách đây 500 năm, trên thế giới hoạt động TGPL đã ra đời. Trong những thập kỷ gần đây, khi xây dựng và phát triển đất nước trong hoà bình, các nhà nước trên thế giới có điều kiện chăm lo hơn các vấn đề xã hội và bảo đảm công bằng xã hội thì hoạt động TGPL phát triển mạnh mẽ hơn. Đây được coi là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với công dân. Như vậy, nếu thừa nhận trật tự xã hội trong nhà nước pháp quyền là một mục tiêu cần hướng tới thì cần coi hoạt động TGPL là một trong những phương tiện để đạt được mục tiêu đó. TGPL cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét xử.
Hiện nay, có một nhận thức mang tính quốc tế, đó là tiếp cận công lý là một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Nhiều nước trên thế giới coi TGPL là một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Hiến pháp nhiều nước quy định quyền được TGPL trong tư pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Xuất phát từ việc hội nhập thế giới mang tính toàn diện, chế định TGPL là rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho người nghèo và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Có thể khẳng định vai trò và ý nghĩa của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. TGPL thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo lập cơ chế bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. TGPL là một trong những hình thức đưa chủ trương chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời TGPL góp phần thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử phù hợp với các quy định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội, một phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế./.
- Thanh Trịnh -
TGPL ở nước ta ra đời khá muộn so với lịch sử nền tư pháp Việt Nam. Hoạt động này được nghiên cứu từ năm 1995 và ra đời vào những năm cuối của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những thành tựu phát triển của những năm đầu đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công của những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của dịch vụ pháp lý. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một tăng đã trở thành động lực quan trọng mang tính quyết định thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động TGPL.
Cho đến nay, 20 năm hình thành và phát triển, công tác TGPL đã đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong giúp đỡ về mặt pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi), qua đó đánh dấu mốc quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế công tác này. Đây là một trong những Luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ban hành nhằm triển khai thi hành Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 và thay thế Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11. Giai đoạn tiếp theo, cần phải tiếp tục truyền thông mạnh mẽ về vị tri, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay để nhiều người biết về quyền được TGPL, tổ chức TGPL... để tìm đến và sử dụng dịch vụ này.
Bài viết này tác giả xin phân tích một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như sau:
1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, Nhà nước có trách nhiệm là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật, phải quan tâm đến người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để đưa pháp luật đến với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội và đưa họ vào đời sống nhà nước và pháp luật để pháp luật thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng phải quan tâm, chú trọng hơn nhằm tăng cường các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của nhóm dân cư này, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, thực thi trên thực tế nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay nội dung “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” có yêu cầu mới là Nhân dân không chỉ chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ đại diện, mà còn từng bước thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, đó sẽ là cơ sở, là tiêu chí để Nhân dân kiểm soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, chính Nhà nước phải là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm cho người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội có được chính sách pháp luật bình đẳng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Từ đó, đặt ra yêu cầu TGPL phải giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nâng cao năng lực, tự mình tham gia quyết định các công việc chung; kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, bảo đảm để cho “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” không những được ghi nhận trong Cương lĩnh, Hiến pháp và được thể chế trong các đạo luật mà còn phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đến với mọi người, đặc biệt là người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương để cho quyền lực nhà nước thật sự là của Nhân dân, được Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền.
Vì vậy, TGPL cần phải tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa để đưa pháp luật đến với người nghèo, những người thuộc nhóm yếu thế để họ được thụ hưởng giá trị tiến bộ mà pháp luật mang lại. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi TGPL phải tồn tại và hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức pháp luật của người nghèo và các nhóm người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền và thực hiện các nghĩa vụ trách nhiệm của công dân.
Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo dục ý thức pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nước và xã hội và các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những hành vi được phép làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm bắt được nội dung pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội.
TGPL trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn giúp làm sáng tỏ nguyên tắc Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật”, “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật”. Thông qua hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nhận thức được vị trí, vai trò của mình trước pháp luật; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ.
Tóm lại, TGPL giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội thấy được pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nó vừa là biện pháp tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa góp phần thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, TGPL là một trong những khâu làm hoàn chỉnh hơn vai trò của ngành Tư pháp từ việc xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật để đưa pháp luật vào đời sống xã hội có hiệu quả.
2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã ghi nhận “Quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật và quyền được bào chữa”; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ghi nhận “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài phán và có quyền được hưởng một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào chữa, ngay cả khi họ không có điều kiện chi trả”. Bên cạnh đó, các quyền con người, quyền công dân trong từng lĩnh vực được tiếp tục khẳng định trong nhiều công ước của Liên Hợp quốc. Ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu hoặc khuyến khích các quốc gia ban hành các đạo luật để bảo đảm quyền con người, quyền công dân... Việc Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người, đặt ra yêu cầu Nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền đó, hạn chế giàu nghèo, kiểm soát được các tiêu cực mới phát sinh. Nhà nước phải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người nghèo và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình đẳng với các chủ thể khác trong tham gia đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước phải có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhóm người này, đồng thời kiểm soát được chất lượng các dịch vụ này bảo đảm công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác trong xã hội.
Do đó, TGPL hình thành và phát triển nhằm góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức, bất công, tôn trọng nhân quyền. Giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, khơi dậy và phát huy tiềm năng con người, coi con người là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đây là một chính sách góp phần bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của người nghèo, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không chỉ thực hiện trên thực tế quyền con người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bởi vì họ là nhóm đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn ai hết, người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội phải được quan tâm, giúp đỡ. Có như vậy, mới phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mới bảo đảm để tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo lập công bằng, bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể.
3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”;“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, tức là phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng, như vậy vai trò của người bào chữa trong phiên tòa ngày càng quan trọng, nếu không có người bào chữa tham gia thì không thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và khó có phiên tòa công bằng. Như vậy, đội ngũ người bào chữa nói chung cần được tăng cường hơn nữa nhằm đáp ứng nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án và quyền bào chữa theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hơn nữa, một trong những cách thức để tổ chức thi hành những quy định mới về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tư pháp là sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và huy động tối đa nguồn lực xã hội để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu TGPL cho người nghèo, người có công với cách mạng, đối tượng yếu thế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền công dân, góp phần xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ.
Đồng thời, qua quá trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động TGPL cũng sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự. Hơn nữa, góp phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Đồng thời, công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ động, nâng cao ý thức thực hiện trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất là của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong việc TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
4. Vị trí, vai trò TGPL công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội
Trong những năm qua một trong những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm là công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đây là một quyết sách lớn để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác này đã được triển khai khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, giáo dục, y tế, giáo dục... Với mục tiêu xóa đói giảm nghèo toàn diện, bền vững và bảo đảm các chính sách an sinh xã hội trên thực tế, đặt ra yêu cầu TGPL phải trở thành một nội dung quan trọng trong tổng thể chương trình xóa đói giảm nghèo và an sinh xã hội. Có ý nghĩa giảm nghèo về mặt pháp luật, TGPL đóng vai trò là cầu nối để người dân nhận thức và thực hiện các chính sách ưu đãi mà Nhà nước dành cho họ hiệu quả, đồng thời giúp chính sách giảm nghèo của Đảng và Nhà nước càng trở nên toàn diện hơn.
Do đó, TGPL là một bộ phận cấu thành trong tổng thể giải pháp xóa đói, giảm nghèo, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng xã hội, là một chính sách lớn trong tổng thể các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Việc thành lập tổ chức TGPL miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác ở Việt Nam xuất phát từ chủ trương xóa đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy đòi hỏi công tác này cần phải lấy người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác làm trung tâm cho mọi chính sách và hoạt động của mình.
5. Vị trí, vai trò TGPL trong thị trường dịch vụ pháp lý
Trong thị trường dịch vụ pháp lý nói chung, luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư là một bộ phận giữ vai trò lớn bên cạnh các thiết chế của Nhà nước và xã hội khác là Trung tâm TGPL nhà nước, Trung tâm tư vấn pháp luật của các tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp, chính trị - xã hội; luật gia, chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, tư pháp... Tính đến hết tháng 6 năm 2017, cả nước có 3.757 tổ chức hành nghề luật sư với 11.396 luật sư, tuy nhiên số lượng luật sư này so với tổng dân số trên cả nước còn rất thấp và có sự phát triển mất cân đối giữa khu vực thành thị và khu vực miền núi, trung du. Tính trên tổng dân số 95 triệu thì trung bình hơn 8.000 người dân mới có 01 luật sư. Tỷ lệ này là quá nhỏ so với nhu cầu tiếp cận và sử dụng pháp lý của người dân, đặc biệt là người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Có thể thấy số lượng luật sư ở nước ta hiện nay chưa đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng của cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng. Trên thực tế, chỉ khoảng trên 20% vụ án hình sự trong cả nước có sự tham gia của luật sư. Ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, số lượng luật sư chưa đủ để bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư mà phải mời các luật sư ở địa phương khác, do đó nhiều vụ án phải tạm hoãn, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Sự thiếu vắng luật sư trong nhiều vụ án hình sự (khoảng 80%) đã không bảo đảm được nguyên tắc tranh tụng, quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án.
Khi mà đội ngũ luật sư còn quá ít, chưa đủ số lượng để đáp ứng được nhu cầu pháp lý trong dân số, hơn nữa việc cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là hoạt động có thu phí thì người nghèo, người có công với cách mạng, người yếu thế khác trong xã hội… khó có thể tiếp cận được dịch vụ của luật sư. Họ thường không có điều kiện về kinh tế để tiếp cận với các loại dịch vụ pháp lý có thu phí nên trong nhiều trường hợp không được tư vấn pháp luật hoặc không có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi bị xâm hại. Xuất phát từ yêu cầu trên, tổ chức TGPL của nhà nước ra đời và phát triển đã tạo cơ chế cần thiết để người nghèo và người có công với cách mạng, người yếu thế khác trong xã hội được tiếp cận và sử dụng dịch vụ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình để tham gia vào các quan hệ xã hội, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân vào pháp luật và góp phần thực hiện công bằng xã hội.
6. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và khắc phục hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và việc hội nhập với nền kinh tế thế giới, mặt tích cực là thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển nhưng đi kèm với nó là một số biểu hiện tiêu cực như gia tăng sự phân hóa giàu nghèo, đồng thời đưa đến những hệ lụy khác trong xã hội. Những vấn đề đó, nhất là sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt, khoảng cách về kinh tế ngày càng cách xa thì tất yếu sẽ dẫn đến sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các điều kiện y tế, giáo dục, văn hóa…, trong đó có việc tiếp cận các dịch vụ pháp lý. Hơn nữa, từ các vấn đề của nền kinh tế đã dẫn đến phát sinh những mối quan hệ trong xã hội đòi hỏi sự điều chỉnh của pháp luật.
Mặt khác, trong điều kiện hệ thống pháp luật nước ta đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện, số lượng văn bản pháp luật ngày càng nhiều và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung thì việc người dân tiếp cận với pháp luật để nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, xử sự phù hợp trong các quan hệ xã hội không phải dễ dàng, do đó TGPL của Nhà nước cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có công với cách mạng và các nhóm người yếu thế khác là yêu cầu khách quan và cần thiết. Hơn nữa, thông qua hoạt động TGPL cũng có thể phát hiện ra các quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo để đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Đồng thời, các vụ việc kiến nghị công vụ cũng góp phần tăng thêm vai trò, trách nhiệm cho cơ quan nhà nước khi thực thi công vụ.
7. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện
Cách đây 500 năm, trên thế giới hoạt động TGPL đã ra đời. Trong những thập kỷ gần đây, khi xây dựng và phát triển đất nước trong hoà bình, các nhà nước trên thế giới có điều kiện chăm lo hơn các vấn đề xã hội và bảo đảm công bằng xã hội thì hoạt động TGPL phát triển mạnh mẽ hơn. Đây được coi là kết quả tất yếu của sự phát triển xã hội, là công cụ để nhà nước thực hiện nghĩa vụ đối với công dân. Như vậy, nếu thừa nhận trật tự xã hội trong nhà nước pháp quyền là một mục tiêu cần hướng tới thì cần coi hoạt động TGPL là một trong những phương tiện để đạt được mục tiêu đó. TGPL cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét xử.
Hiện nay, có một nhận thức mang tính quốc tế, đó là tiếp cận công lý là một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Nhiều nước trên thế giới coi TGPL là một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Hiến pháp nhiều nước quy định quyền được TGPL trong tư pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật. Xuất phát từ việc hội nhập thế giới mang tính toàn diện, chế định TGPL là rất cần thiết để giúp đỡ pháp lý cho người nghèo và các đối tượng yếu thế khác trong xã hội.
Có thể khẳng định vai trò và ý nghĩa của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. TGPL thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo lập cơ chế bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. TGPL là một trong những hình thức đưa chủ trương chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời TGPL góp phần thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử phù hợp với các quy định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội, một phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế./.
- Thanh Trịnh -