Trợ giúp pháp lý góp phần triển khai thực hiện công tác cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW

20/11/2019
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết số 49-NQ/TW) với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

1. Những kết quả đạt được

Qua gần 15 triển khai Nghị quyết, các Bộ, ngành, các cấp đã bám sát quan điểm, chủ trương về cải cách tư pháp của Đảng. Trợ giúp pháp lý (TGPL) đã đóng góp phần không nhỏ trong việc thực hiện cải cách tư pháp của Ngành Tư pháp và đạt được một số kết quả nhất định sau:

- Về công tác xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về TGPL

* Từ 2005 – 2016: có 34 văn bản quy phạm pháp luật về TGPL, bao gồm: Luật TGPL năm 2006; 04 Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007; Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012; Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013; Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015); 05 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997; Quyết định số 84/2008/QĐ-TTg ngày 30/6/2008; Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 08/8/2010; Quyết định số 59/2012/QĐ-TTg ngày 24/12/2012; Quyết định số 32/2016/QĐ-TTg ngày 18/8/2016); 16 Thông tư, Thông tư liên tịch; 08 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ còn ban hành 03 văn bản về Trợ giúp pháp lý: Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Đề án Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2015”, Quyết định số 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 ban hành Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 và Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 01/6/2015 ban hành Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025.

* Từ 2017 - nay: có 08 văn bản quy phạm pháp luật về TGPL: Luật TGPL năm 2017; 01 Nghị định (Nghị định số 144/2017/NĐ-CP); 01 Thông tư liên tịch (Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 29/6/2018); 05 Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (Thông tư số 05/2017/TT-BTP; Thông tư số 08/2017/TT/BTP; Thông tư số 09/2018/TT-BTP; Thông tư số 12/2018/TT-BTP; Thông tư số 13/2018/TT-BTP).

Luật TGPL năm 2017 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 20/6/2017 với 100% đại biểu có mặt tán thành đã bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước về xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và quan điểm về quyền con người, quyền công dân nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là bảo đảm thực hiện Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Luật TGPL năm 2017 đã khắc phục bất cập, hạn chế của hoạt động TGPL trong thời gian qua cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về TGPL, tinh gọn tổ chức thực hiện TGPL của Nhà nước nhằm bảo đảm tính bền vững của công tác TGPL theo hướng lấy người được TGPL làm trung tâm, kiểm soát chặt chẽ chất lượng dịch vụ TGPL, đề cao hiệu quả sử dụng ngân sách và khuyến khích sự đóng góp, hỗ trợ tài chính của xã hội cho hoạt động TGPL. Luật TGPL năm 2017 đã tạo cơ sở pháp lý cho công tác TGPL phát triển bền vững, thể hiện đúng bản chất của TGPL là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đưa hoạt động TGPL vào nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện vụ việc TGPL, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng.

Để các địa phương áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật về TGPL được thuận lợi, thống nhất, Cục Trợ giúp pháp lý đã thực hiện hệ thống hóa các văn bản còn hiệu lực thi hành trong lĩnh vực TGPL, theo đó hiện nay có 19 văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực, bao gồm: Luật TGPL năm 2017, 01 Nghị định, 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 08 Thông tư liên tịch, 07 Thông tư của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

- Về công tác bồi dưỡng và phát triển đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý

Công tác bồi dưỡng, phát triển đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý luôn được quan tâm. Điểm b khoản 2 Điều 18 Luật TGPL đã quy định việc tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL của Trợ giúp viên pháp lý và Điều 4 Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL đã cụ thể hóa quy định này.  

Hàng năm, ở Trung ương đều tổ chức các lớp tập huấn (từ 06 - 09 lớp/năm) nhằm trang bị cho các Trợ giúp viên pháp lý nói riêng và người thực hiện TGPL nói chung các kiến thức chuyên sâu về Luật TGPL cũng như kỹ năng TGPL trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hành chính và kỹ năng thực hiện TGPL cho một số đối tượng đặc thù như người khuyết tật, trẻ em... Ngoài ra, Học viện Tư pháp hàng năm đều thực hiện rà soát nhu cầu để tổ chức các lớp bồi dưỡng Trợ giúp viên pháp lý hạng II để bảo đảm cho các Trợ giúp viên pháp lý đủ điều kiện để thi nâng hạng lên Trợ giúp viên pháp lý chính theo quy định tại Thông tư liên tịch số 08/2016/TTLT-BTP-BNV ngày 23/6/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức Trợ giúp viên pháp lý. Ở địa phương, Sở Tư pháp và Trung tâm TGPL nhà nước đều tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng thực hiện TGPL  cho đội ngũ người thực hiện TGPL.

Tính đến hết tháng 12/2018, cả nước hiện có 645 Trợ giúp viên pháp lý, các Trợ giúp viên pháp lý đều có trình độ cử nhân Luật trở lên. Các Trợ giúp viên pháp lý hàng năm đều tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do Bộ Tư pháp (Cục TGPL, Học viện Tư pháp) và do Sở Tư pháp, Trung tâm TGPL nhà nước tổ chức nhằm cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng thực hiện TGPL, đặc biệt là kỹ năng tham gia tố tụng trong lĩnh vực hình sự, dân sự, hành chính... Qua các lớp tập huấn, kiến thức mà các học viên thu được đã được áp dụng trong hoạt động nghề nghiệp của mình, đặc biệt là hoạt động tranh tụng tại Tòa, từ đó đội ngũ người thực hiện TGPL nói chung và Trợ giúp viên pháp lý nói riêng đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình, được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận và đánh giá cao.

- Về kết quả thực hiện vụ việc TGPL:

Từ 2005 - 2018, các Trung tâm TGPL nhà nước đã thực hiện được 1.531.945 vụ việc TGPL, trong đó có 112.020 vụ việc tham gia tố tụng, 1.380.749 vụ việc tư vấn pháp luật, 3.977 vụ việc đại diện ngoài tố tụng và 35.099 vụ việc khác.  

Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là bước ngoặt lớn chuyển công tác TGPL đi về đúng trọng tâm là thực hiện vụ việc TGPL, đặc biệt là các vụ việc tham gia tố tụng. Luật TGPL năm 2017 đã luật hóa một số định hướng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 - 2025, trong đó có trọng tâm thực hiện vụ việc TGPL. Để nâng cao chất lượng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý nhằm cung cấp dịch vụ TGPL có chất lượng, Luật TGPL năm 2017 quy định về việc Trợ giúp viên pháp lý tham gia các khóa tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL tối thiểu 08 giờ/năm (điểm b khoản 2 Điều 18 Luật TGPL và Điều 4 Thông tư số 12/2018/TT-BTP), đồng thời, Trợ giúp viên pháp lý bị miễn nhiệm và thu hồi thẻ khi không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng trong thời gian 02 năm liên tục, trừ trường hợp do nguyên nhân khách quan (điểm d khoản 1 Điều 22 Luật TGPL). Chỉ tiêu thực hiện vụ việc tham gia tố tụng giao cho Trợ giúp viên pháp lý hàng năm đều có sự tính toán trên cơ sở kết quả hoàn thành chỉ tiêu của năm trước để có chỉ tiêu phù hợp[1]. Thực tế, số vụ việc tham gia tố tụng, đặc biệt là số vụ việc tham gia tố tụng do Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành hàng năm đều tăng so với năm trước, cụ thể: năm 2015, Trợ giúp viên pháp lý thực hiện được 4.851 vụ việc tham gia tố tụng, năm 2016 là 6.836 vụ việc tham gia tố tụng (tăng 40,9% so với năm 2015), năm 2017 là 7.913 vụ việc tham gia tố tụng (tăng 15,7% so với năm 2016, tăng 63,1% so với năm 2015) và năm 2018 là 9.064 vụ việc tham gia tố tụng (tăng 14,5% so với năm 2017, tăng 32,6% so với năm 2016 và tăng 91% so với năm 2015).

Trong các vụ việc tố tụng có sự tham gia của Trợ giúp viên pháp lý, nhiều luận cứ bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích của người thực hiện TGPL đã được ghi nhận tại các bản án và có nhiều vụ việc thành công khi mức phạt tòa tuyên thấp hơn so với mức phạt khi khởi tố hoặc chuyển khung hình phạt (theo thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2018 và 6 tháng đầu năm 2019, các Trung tâm TGPL nhà nước trong toàn quốc đã thực hiện được 331 vụ việc người bị buộc tội được giảm mức hình phạt so với cáo trạng của Viện Kiểm sát, 04 vụ việc người bị buộc tội được tuyên vô tội, 12 vụ việc đình chỉ vụ án theo hướng có lợi cho bị cáo).

- Về thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động TGPL

Nhằm thu hút sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội nghề nghiệp và các luật sư tham gia TGPL, Luật TGPL năm 2006 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL bằng nguồn lực của mình: Điều 13, Điều 17, Điều 18, Điều 19 Luật TGPL năm 2006 và các Điều 15, 16, 17, 18 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL; quy định việc luật sư, cộng tác viên tham gia TGPL và được bồi dưỡng khi thực hiện vụ việc TGPL: Điều 23 Luật TGPL năm 2006, các Điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP, Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 của Chính phủ và Thông tư số 07/2012/TT-BTP ngày 30/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn về cộng tác viên TGPL của Trung tâm TGPL nhà nước.

Để thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tiêu chuẩn cụ thể với tổ chức tham gia TGPL và quy định cụ thể về việc lựa chọn, ký hợp đồng với luật sư thực hiện TGPL, ký hợp đồng với cộng tác viên TGPL, cụ thể:

+ Về tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL: để khắc phục tình trạng tham gia TGPL một cách hình thức, không hiệu quả của các tổ chức xã hội, Luật TGPL quy định các điều kiện cụ thể để tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật tham gia TGPL (Điều 12, các khoản 3, 4 Điều 13, các khoản 1, 2 Điều 14, Điều 15, Điều 16 Luật TGPL năm 2017); thủ tục đăng ký tham gia TGPL của các tổ chức hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật có đủ điều kiện quy định tại Điều 15 Luật TGPL năm 2017 (các Điều 19, 20, 21, 22 Thông tư số 08/2017/TT-BTP). Đặc biệt, để ký hợp đồng với các tổ chức có điều kiện tốt nhất cung cấp dịch vụ TGPL Sở Tư pháp sẽ tổ chức lựa chọn theo một quy trình chặt chẽ phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương (các Điều 9, 10, 11, 12, 13 Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động TGPL). Hơn nữa, Luật có cơ chế trả thù lao cho các tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL nhằm khuyến khích sự tham gia TGPL có chất lượng hơn của các tổ chức này (điểm b khoản 3 Điều 13 Luật TGPL và Điều 14 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật TGPL).

+ Về luật sư, cộng tác viên TGPL ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL: để nâng cao chất lượng của đội ngũ luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL, Luật quy định cụ thể về điều kiện để Trung tâm TGPL nhà nước lựa chọn, ký kết hợp đồng với luật sư thực hiện TGPL (khoản 3 Điều 14 Luật TGPL) theo trình tự thủ tục nhất định (các Điều 3, 4, 5, 6, 7 Thông tư số 08/2017/TT-BTP). Cộng tác viên TGPL được Sở Tư pháp cấp thẻ, ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL nhà nước (Điều 24 Luật TGPL, Điều 8 Thông tư số 08/2017/TT-BTP). Nhằm khuyến khích đội ngũ luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL, cộng tác viên TGPL, pháp luật về TGPL hiện hành đã quy định luật sư, cộng tác viên TGPL được hưởng thù lao và chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo quy định (khoản 3 Điều 18 Luật TGPL và Điều 13 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP).

Triển khai Luật TGPL năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đến ngày 31/12/2018, đã có 27 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp (trong đó có 46 luật sư) và 72 tổ chức đăng ký tham gia TGPL (trong đó có 314 luật sư),727 cá nhân luật sư ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL nhà nước và 2.025 cộng tác viên TGPL. 

2. Đánh giá chung

Thời gian qua, kết quả hoạt động TGPL đã có tác động tích cực đối với công tác tư pháp và đảm bảo thực hiện các quyền của người dân, nhất là những đối tượng yếu thế và đồng bào ở vùng khó khăn; tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi trong các vụ việc tố tụng; đồng thời hỗ trợ tích cực cho công tác điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo đảm giải quyết vụ án khách quan, công bằng, đúng pháp luật, góp phần thực hiện cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, công tác TGPL vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như sau:

- Công tác truyền thông về TGPL tại vùng miền núi, hải đảo còn chưa được thường xuyên. Nội dung truyền thông có chỗ còn chưa phù hợp với các đối tượng đặc thù và địa bàn sinh sống của người dân. Công tác truyền thông chưa phản ánh sinh động thực tế công tác TGPL nên chưa thu hút sự quan tâm của xã hội, người dân về công tác này.

- Việc thu hút các nguồn lực xã hội tham gia TGPL còn hạn chế, số lượng luật sư tham gia TGPL còn ít so với tổng số luật sư trong toàn quốc (1.087/13.141, chiếm 8,2%).

- Công tác phối hợp về TGPL trong hoạt động tố tụng ở một số địa phương, cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, công tác chuyển gửi đối tượng được TGPL ở một số cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện theo quy định nên chưa bảo đảm được quyền TGPL của người dân.

3. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác TGPL trong thời gian tới nhằm tiếp tục thực hiện mục tiêu cải cách tư pháp là bảo vệ công lý, kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL

Thứ nhất, cần có định hướng phù hợp với đặc thù công tác TGPL ở Việt Nam (TGPL là trách nhiệm của Nhà nước, người được TGPL hoàn toàn không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác - khác với các dịch vụ có thu phí trong các hoạt động y tế, giáo dục, công chứng,…) bảo đảm phù hợp với xu hướng phát triển TGPL của các quốc gia khác (Úc, Anh và xứ Wales, Hàn Quốc, Hà Lan, Trung Quốc, Đài Loan), cụ thể: thực hiện đa dạng hóa các chủ thể tham gia TGPL; có chính sách ưu tiên cho những luật sư, tổ chức hành nghề luật sư thực hiện nhiều vụ việc TGPL có chất lượng, có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội được tham gia tư vấn pháp lý cho các dự án liên kết của Nhà nước với quốc gia khác, tham gia các vụ kiện bảo vệ Nhà nước,…

Thứ hai, đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao nhận thức của chính người được TGPL để họ biết về quyền được TGPL và tự tìm đến cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thực hiện TGPL để yêu cầu TGPL nhằm kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tăng cường hiểu biết về TGPL cho đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan tiếp xúc hàng ngày với người dân (Ủy ban nhân dân xã, giáo viên trên địa bàn, công an xã, trưởng thôn, cán bộ hòa giải, cán bộ Hội Phụ nữ, Hội Nông dân…) nhằm kịp thời giải thích, hướng dẫn người được TGPL đến tổ chức thực hiện TGPL trên địa bàn để yêu cầu TGPL.

Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của luật sư với tư cách là người bảo vệ công lý tham gia TGPL nhiệt tình, có trách nhiệm, không tham gia TGPL theo tính hình thức, không phân biệt thực hiện TGPL cho người được TGPL với cung cấp dịch vụ pháp lý có thu cho khách hàng.

Trần Phượng

Phòng Chính sách và Quản lý nghiệp vụ TGPL, Cục Trợ giúp pháp lý

 

 

[1] Năm 2016, Trợ giúp viên pháp lý được bổ nhiệm dưới 03 năm thực hiện ít nhất từ 04 - 07 vụ/năm thì đạt chỉ tiêu, thực hiện được 08 - 10 vụ/năm đạt chỉ tiêu khá, thực hiện được từ 12 vụ trở lên đạt chỉ tiêu tốt.

Năm 2019, Trợ giúp viên pháp lý được bổ nhiệm dưới 03 năm thực hiện ít nhất từ 05 - 09 vụ/năm thì đạt chỉ tiêu, thực hiện được 10 - 13 vụ/năm đạt chỉ tiêu khá, thực hiện được từ 14 vụ trở lên đạt chỉ tiêu tốt.

 

Xem thêm »