Hoạt động của hệ thống Trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực giới

01/12/2014
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

I. Khuổn khổ pháp lý về trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực giới

của Nhà nước và xã hội cho người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật nhằm giải toả vướng mắc pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật để họ tự mình biết cách ứng xử phù hợp với pháp luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) và các văn bản hướng dẫn thi hành[1] thì nạn nhân bạo lực giới thuộc đối tượng sau đây sẽ được các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí trong các vụ việc liên quan trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, trên tất cả các lĩnh vực pháp luật, trừ kinh doanh, thương mại:
- Là người nghèo - người thuộc hộ nghèo (Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015)[2].
- Người có công với cách mạng: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01/01/1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01/01/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Mẹ đẻ, vợ, con của liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ.
- Người từ đủ 60 tuổi trở lên, sống cô đơn, không có nơi nương tựa hoặc là người dưới 16 tuổi không nơi nương tựa;
- Người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn; người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa.
- Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
- Các đối tượng khác theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên. Bộ trưởng Bộ Tư pháp sẽ hướng dẫn cụ thể về người được trợ giúp pháp lý theo các điều ước quốc tế.
Ngoài ra, theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình được tư vấn pháp luật để giải quyết tình trạng bạo lực gia đình (Khoản 1, Điều 24). Theo Luật Phòng, chống mua bán người và các văn bản hướng dẫn thi hành, phụ nữ là nạn nhân của hành vi mua bán người được tư vấn pháp luật để phòng ngừa bị mua bán trở lại và được trợ giúp pháp lý để làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, nhận chế độ hỗ trợ, đòi bồi thường thiệt hại, tham gia tố tụng và các thủ tục pháp lý khác có liên quan đến vụ việc mua bán người (Điều 36). Theo đó, nạn nhân là người bị xâm hại bởi hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 3 của Luật:
- Mua bán người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 Bộ luật hình sự.
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
- Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi nêu trên.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2013 quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong TGPL (để thay thế Thông tư số 07/2011/TT-BTP). Thông tư đã quy định rõ hơn về các nội dung TGPL khi người được TGPL là người mẹ, trẻ em gái, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục có yêu cầu được TGPL.
II. Sơ lược về hệ thống trợ giúp pháp lý tại Việt Nam
1. Cơ cấu tổ chức bộ máy trợ giúp pháp lý ở Trung ương
Theo quy định tại Quyết định số 1989/QĐ-BTP ngày 17/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục TGPL thì Cục TGPL là đơn vị trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác TGPL trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về TGPL theo quy định của pháp luật. Cục TGPL là đơn vị có tư cách pháp nhân, có trụ sở tại thành phố Hà Nội, có con dấu và tài khoản theo quy định của pháp luật.
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy trợ giúp pháp lý ở địa phương
Ở Việt Nam hiện nay có hai loại hình tổ chức thực hiện TGPL, đó là: Tổ chức thực hiện TGPL của nhà nước và các tổ chức tham gia TGPL.
2.1. Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý của nhà nước
Tổ chức thực hiện TGPL của nhà nước là Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm. Trung tâm do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thành lập, là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, chịu sự quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, sự chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn, kiểm tra chuyên môn của Bộ Tư pháp. Trung tâm có Giám đốc, Phó giám đốc, Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL). Giám đốc Trung tâm do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Trung tâm thực hiện các hoạt động chính sau đây:
- Truyền thông về TGPL; khảo sát nhu cầu TGPL của người dân
- Cử người tiếp dân và thụ lý vụ việc: thực hiện tư vấn pháp luật; ra quyết định cử người tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng và thực hiện những hình thức TGPL khác cho người được TGPL;
- Tổ chức và thực hiện các đợt TGPL lưu động; hướng dẫn hoạt động và cử người trực tiếp tham dự sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL;
- Tổ chức tập huấn về kỹ năng TGPL và cập nhật văn bản pháp luật mới cho Trợ giúp viên pháp lý và cộng tác viên;
- Phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện truyền thông, tập huấn về TGPL và thống kê TGPL trong tố tụng; phối hợp với tổ chức đoàn thể - xã hội và các cơ quan, tổ chức khác truyền thông về TGPL;
- Kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật;
- Thực hiện các chức năng quản lý cán bộ, tài chính, cơ sở vật chất theo quy định.
Quyền và nghĩa vụ của Trung tâm TGPL nhà nước:
- Thực hiện TGPL;
- Đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan phối hợp, cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc TGPL;
- Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện TGPL;
- Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL;
- Giải quyết khiếu nại theo quy định tại khoản 1 Điều 49 của Luật TGPL; giải quyết tranh chấp trong TGPL;
- Kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật.
2.2. Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý
Các tổ chức tham gia TGPL bao gồm: Tổ chức hành nghề luật sư; Tổ chức tư vấn pháp luật thuộc tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp (sau đây gọi chung là tổ chức tư vấn pháp luật) có đăng ký tham gia TGPL.
Văn phòng luật sư và Công ty luật có điều kiện và có nguyện vọng đăng ký tham gia thực hiện TGPL tại Sở Tư pháp nơi đã cấp Giấy đăng ký hoạt động. Các tổ chức này có thể lựa chọn để đăng ký về hình thức, phạm vi, lĩnh vực thực hiện TGPL phù hợp. Cá nhân luật sư có thể tham gia TGPL với tư cách là CTV của Trung tâm.
Các tổ chức chính trị - xã hội (Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Liên đoàn lao động) và các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp (Hội Luật gia, Hội Nhà báo, Hội Khoa học kỹ thuật…), tổ chức xã hội nghề nghiệp có các Trung tâm tư vấn pháp luật (để tư vấn pháp luật cho các thành viên, hội viên của mình) có điều kiện và nguyện vọng đăng ký thực hiện TGPL cho người thuộc diện được TGPL tại Sở Tư pháp nơi cấp Giấy đăng ký hoạt động.
Tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật khi tham gia TGPL có các quyền và nghĩa vụ sau đây:
- Thực hiện TGPL trong phạm vi và lĩnh vực TGPL theo Giấy đăng ký tham gia TGPL;
- Đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến vụ việc TGPL;
- Bồi thường thiệt hại do lỗi của mình gây ra trong khi thực hiện TGPL;
- Thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về TGPL;
- Giải quyết tranh chấp trong TGPL;
- Kiến nghị về những vấn đề liên quan đến thi hành pháp luật.
2.3. Người thực hiện trợ giúp pháp lý
Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Luật TGPL, người thực hiện TGPL là Trợ giúp viên pháp lý (TGVPL) và Cộng tác viên TGPL.
  TGVPL là viên chức của Trung tâm được Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm và cấp thẻ. Để trở thành TGVPL, viên chức của Trung tâm phải có bằng cử nhân luật, có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL sau khi đã hoàn thành khoá bồi dưỡng nghề luật sư và có thời gian làm công tác pháp luật từ 02 năm trở lên.
  Theo quy định tại Điều 21 Luật TGPL, TGVPL phải có đầy đủ các tiêu chuẩn “là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có phẩm chất đạo đức tốt; có bằng cử nhân luật; có Chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ TGPL; có thời gian làm công tác pháp luật từ hai năm trở lên; có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao”. Để trở thành TGVPL, cán bộ pháp luật này phải đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn theo quy định của Luật TGPL.
TGVPL được thực hiện TGPL với các hình thức sau:
- Tư vấn pháp luật;
- Tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự; người đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính;
- Đại diện ngoài tố tụng cho người được TGPL để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật;
- Thực hiện các hình thức TGPL khác.
Cộng tác viên TGPL, bao gồm: CTV của Trung tâm TGPL nhà nước, Luật sư, Tư vấn viên pháp luật.
III. Hoạt động của hệ thống trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực giới
1. Điều kiện tiếp nhận yêu cầu trợ giúp pháp lý của người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực giới
Theo quy định tại Thông tư số 05/2008/TT-BTP ngày 23/9/2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về nghiệp vụ TGPL và quản lý nhà nước về TGPL, nạn nhân bạo lực giới có thể tự mình hoặc thông qua người thân thích, người đại diện  yêu cầu Trung tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Thuộc diện người được TGPL quy định tại Điều 10 Luật TGPL; Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP và Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP;
- Nội dung vụ việc TGPL phải liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL và không thuộc lĩnh vực kinh doanh thương mại;
- Vụ việc TGPL thuộc phạm vi TGPL (người được TGPL đang cư trú tại địa phương; vụ việc TGPL xảy ra tại địa phương; vụ việc TGPL do tổ chức thực hiện TGPL khác chuyển đến);
- Yêu cầu TGPL không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc không được tiếp tục thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật TGPL[3].
2. Quyền và nghĩa vụ của người được trợ giúp pháp lý là nạn nhân bạo lực giới
- Tự mình hoặc thông qua người thân thích, người đại diện yêu cầu TGPL. Khi có vướng mắc pháp luật, nạn nhân bạo lực giới đến tổ chức thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL phát đơn miễn phí (theo mẫu) cho người có yêu cầu hoặc người có yêu cầu tự viết đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ. Trong trường hợp người có yêu cầu không đến được mà có người đại diện, người giám hộ đến thay thì người đại diện, người giám hộ ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn, trừ trường hợp giữa người có yêu cầu với người đại diện, người giám hộ có mâu thuẫn về quyền, lợi ích hợp pháp. Trong trường hợp người có yêu cầu nhờ người thân thích (ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên, anh chị em ruột đã thành niên) hoặc uỷ quyền cho người khác đến nộp đơn thì ngoài giấy tờ chứng minh là người thuộc diện được TGPL, người đến thay phải xuất trình Giấy chứng minh nhân dân của mình hoặc giấy uỷ quyền có ký xác nhận của người có yêu cầu. Người nộp đơn thay ghi rõ họ, tên, số Giấy chứng minh nhân dân, địa chỉ cư trú và ký tên vào Sổ theo dõi, tổng hợp vụ việc TGPL.
- Lựa chọn người thực hiện TGPL; yêu cầu thay đổi người thực hiện TGPL khi người đó thuộc một trong các trường hợp sau: Người thực hiện TGPL đã hoặc đang thực hiện TGPL cho người được TGPL là một bên có quyền lợi đối lập nhau trong cùng một vụ việc, trừ trường hợp hoà giải, giải đáp pháp luật; có quyền, lợi ích hợp pháp hoặc có người thân thích liên quan đến vụ việc TGPL; Người thực hiện TGPL đã từng là người giải quyết vụ việc đó; Có căn cứ khác cho rằng người thực hiện TGPL có thể không khách quan trong thực hiện TGPL.
- Thay đổi, rút yêu cầu TGPL.
- Yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc TGPL.
- Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
- Khiếu nại, tố cáo về TGPL.
Song song với quyền, nạn nhân bạo lực giới phải tuân thủ một số nghĩa vụ nhất định, cụ thể là:
- Cung cấp giấy tờ chứng minh là người được TGPL. Các giấy tờ chứng minh nạn nhân bạo lực giới thuộc diện TGPL bao gồm:
Đối với nạn nhân bạo lực giới là người nghèo thì giấy tờ chứng minh là Bản chính hoặc bản sao Sổ hộ nghèo, Thẻ hộ nghèo, Giấy xác nhận thuộc hộ nghèo của Uỷ ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan lao động, thương binh và xã hội, tổ chức khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nơi người có yêu cầu cư trú hoặc làm việc; các giấy tờ hợp pháp khác mà dựa vào đó có thể biết được người có tên trong giấy đó thuộc diện hộ nghèo như (Thẻ khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, Sổ vay vốn ngân hàng chính sách xã hội dành cho người nghèo,...).
Đối với nạn nhân bạo lực giới là người có công với cách mạng khi yêu cầu TGPL xuất trình những giấy tờ sau: Quyết định công nhận thuộc một trong các đối tượng là người có công với cách mạng theo quy định tại Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Giấy xác nhận thuộc diện người có công với cách mạng của cơ quan lao động, thương binh và xã hội hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người có yêu cầu cư trú; Giấy chứng nhận thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Giấy chứng nhận bệnh binh; Giấy chứng nhận gia đình Liệt sỹ, Bằng Tổ quốc ghi công kèm theo giấy tờ xác nhận về mối quan hệ nhân thân (cha, mẹ đẻ, vợ, chồng, con dưới 18 tuổi hoặc không có năng lực hành vi dân sự,...) với liệt sỹ (như Sổ Hộ khẩu gia đình, Giấy đăng ký kết hôn, Giấy khai sinh,...) hoặc giấy xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã; Huân chương, Huy chương hoặc giấy tờ xác nhận khác có ghi nhận họ thuộc diện người có công với cách mạng; Bằng có công với nước, Kỷ niệm chương hoặc giấy chứng nhận bị địch bắt, tù đày; các loại giấy tờ hợp pháp khác mà dựa vào đó có thể biết được người có tên trong giấy tờ đó là người có công với cách mạng; trường hợp những người thuộc diện người có công với cách mạng bị thất lạc giấy tờ thì cơ quan lao động, thương binh và xã hội hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
Đối với nạn nhân bạo lực giới là người già cô đơn không nơi nương tựa khi có yêu cầu xuất trình một trong các giấy tờ sau đây: Giấy xác nhận là người từ đủ 60 tuổi trở lên sống độc thân hoặc không nơi nương tựa của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc xác nhận của cơ sở Bảo trợ xã hội, Nhà dưỡng lão, tổ chức chính trị - xã hội nơi người đó sinh hoạt; các giấy tờ hợp pháp khác mà dựa vào đó có thể biết rằng người có tên trong đó là người già cô đơn không nơi nương tựa.
Đối với nạn nhân bạo lực giới là người khuyết tật khi có yêu cầu xuất trình một trong các giấy tờ sau đây: Giấy xác nhận là người khuyết tật của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú; giấy xác nhận của cơ sở Bảo trợ xã hội, Hội người khuyết tật hoặc của cơ sở trợ giúp người khuyết tật khác hoặc của cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, sinh hoạt; các giấy tờ hợp pháp khác mà dựa vào đó có thể biết rằng người có tên trong đó là người khuyết tật.
Đối với nạn nhân bạo lực giới là trẻ em không nơi nương tựa khi có yêu cầu xuất trình một trong các giấy tờ sau đây: Giấy xác nhận là trẻ em không nơi nương tựa của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em đó cư trú; giấy xác nhận của cơ sở Bảo trợ xã hội, Nhà tình thương, cơ sở trợ giúp trẻ em khác hoặc của cơ quan lao động, thương binh và xã hội; Bản chính hoặc bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao chụp từ bản chính có chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc các giấy tờ hợp pháp khác mà dựa vào đó có thể biết rằng người có tên trong đó là trẻ em không nơi nương tựa.
Đối với nạn nhân bạo lực giới là người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi có yêu cầu xuất trình một trong các giấy tờ sau đây: Giấy xác nhận là người dân tộc thiểu số của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, sinh hoạt; Sổ hộ khẩu gia đình thể hiện người có yêu cầu là người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Giấy chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có thể chứng minh người có yêu cầu là người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Nạn nhân bị mua bán khi có yêu cầu, xuất trình một trong các giấy tờ sau đây: Giấy xác nhận của cơ quan Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Giấy xác nhận của cơ quan giải cứu (Cơ quan Công an, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển); Giấy xác nhận của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; Giấy tờ, tài liệu do cơ quan nước ngoài cấp đã được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài hoặc Bộ Ngoại giao Việt Nam hợp pháp hóa lãnh sự chứng minh người đó là nạn nhân.
Các đối tượng được TGPL theo các Điều ước quốc tế hoặc Thoả thuận quốc tế thì khi có yêu cầu họ phải có giấy tờ chứng minh thuộc diện người được TGPL theo Điều ước quốc tế hoặc Thoả thuận quốc tế đó.
- Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến vụ việc TGPL và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu đó.
- Tôn trọng tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện TGPL.
- Không yêu cầu tổ chức thực hiện TGPL khác TGPL cho mình về một vụ việc đang được tổ chức thực hiện TGPL trợ giúp.
- Chấp hành pháp luật về TGPL và nội quy nơi thực hiện TGPL.
3. Trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
3.1. Trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý
- Nghĩa vụ của người thực hiện TGPL trong việc nhận diện/xác định nạn nhân bạo lực giới: Khi tiếp nhận yêu cầu của người được TGPL là phụ nữ, người thực hiện TGPL cần xem xét các dấu hiệu để biết người đó có phải là nạn nhân của bạo lực trên cơ sở giới hay không. Nếu người yêu cầu TGPL cố tình giấu các thông tin liên quan đến tình trạng bạo lực của họ thì người thực hiện TGPL có trách nhiệm động viên, giải thích để người được TGPL cung cấp thông tin về vụ việc, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ (Điều 12, Thông tư số 11/2014/TT-BTP).
- Trách nhiệm của người thực hiện TGPL khi phát hiện ra nạn nhân bạo lực gia đình: Khi tiếp nhận người được TGPL và phát hiện ra họ là nạn nhân bạo lực gia đình hoặc nạn nhân tự trình bày về vụ việc của họ, theo quy định tại Điều 12 Thông tư số 11/2014/TT-BTP, tổ chức thực hiện TGPL có trách nhiệm phân công người thực hiện TGPL thực hiện vụ việc phù hợp với nhu cầu của nạn nhân bạo lực gia đinh và khả năng của tổ chức mình (khoản 1 Điều 10 Thông tư số 11/2014/TT-BTP). Khi được phân công, người thực hiện TGPL cần tìm hiểu các dấu hiệu và có một số trách nhiệm như sau:
+ Tìm hiểu các nhu cầu của người được TGPL và giải thích cho họ biết về quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật;
+ Kịp thời  hướng dẫn họ tiếp cận với các cơ sở trợ giúp, hỗ trợ nạn nhân;
+ Hướng dẫn hoặc đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật;
+ Hướng dẫn người được TGPL đề nghị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng hoặc hủy bỏ các biện pháp bảo vệ, thương lượng, hoà giải, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
+ Thông tin, phối hợp với các cơ sở trợ giúp, hỗ trợ nạn nhân để thực hiện các biện pháp hỗ trợ, bảo vệ và trợ giúp theo quy định của pháp luật
- Trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong vụ việc tư vấn pháp luật: Người thực hiện TGPL được cử thực hiện vụ việc tư vấn pháp luật, ngoài việc tiến hành các công việc theo quy định về tư vấn pháp luật trong hoạt động TGPL còn cần:
+ Nếu người được TGPL yêu cầu được tiếp riêng, không muốn người thứ ba cùng nghe họ trình bày, thì người thực hiện TGPL có trách nhiệm bố trí địa điểm tiếp phù hợp, tạo điều kiện cho họ được trình bày, cung cấp thông tin, tài liệu về vụ việc;
+ Thông tin về quyền được pháp luật bảo vệ, không phán xét, đổ lỗi, gây áp lực, gây sợ hãi hoặc làm tổn thương về mặt tâm lý cho người được TGPL;
+ Động viên, giải thích để người được TGPL cung cấp thông tin về vụ việc, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
+ Tư vấn pháp luật, giải thích quyền, nghĩa vụ, bảo đảm bí mật thông tin về vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật; hướng dẫn người được TGPL tiếp cận với các cơ sở trợ giúp, hỗ trợ nạn nhân; hướng dẫn hoặc đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân theo quy định của pháp luật.
- Trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong vụ việc tham gia tố tụng : Người được phân công “đại diện, bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” cho nạn nhân tại các cơ quan tiến hành tố tụng, ngoài việc tiến hành các công việc theo quy định của Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành, cần thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
+ Hỗ trợ, giúp người được TGPL ổn định tâm lý;
+ Trường hợp cần thiết thì yêu cầu Tòa án cử người hỗ trợ tại Tòa để giúp nạn nhân chứng thực lời khai, tránh việc liên hệ giữa nạn nhân với người có hành vi vi phạm trong trường hợp nạn nhân bị kích động hoặc bị đe dọa đến danh dự và tính mạng của họ.
- Trách nhiệm của người thực hiện TGPL trong vụ việc đại diện ngoài tố tụng:
+ Đề xuất cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ an toàn cho người được TGPL và người thân thích của họ;
+ Hướng dẫn người được TGPL đề nghị hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng hoặc hủy bỏ các biện pháp bảo vệ, thương lượng, hòa giải, nhằm bảo vệ tốt nhât quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
3.2. Trách nhiệm của các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý
- Phân công người thực hiện TGPL thực hiện vụ việc phù hợp với nhu cầu của người được TGPL và khả năng của tổ chức mình; 
- Công khai danh sách người thực hiện TGPL của tổ chức mình để người được TGPL thực hiện quyền lựa chọn, thay đổi người thực hiện TGPL. Danh sách người thực hiện TGPL phải thể hiện rõ giới tính, lĩnh vực chuyên môn và kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực chuyên môn được giao;
- Khuyến khích và tạo điều kiện để người có kiến thức, kỹ năng về giới, bình đẳng giới, về phòng, chống bạo lực gia đình tham gia làm cộng tác viên;
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan thông tin, truyền thông, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị, xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, chính quyền cơ sở để truyền thông, phổ biến pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và các thông tin liên quan đến vụ việc TGPL cho nạn nhân bạo lực gia đình;
- Tạo điều kiện cho nạn nhân tiếp cận và thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của pháp luật;
- Không tạo áp lực hoặc sử dụng điểm yếu về giới tính của nạn nhân để buộc họ phải quyết định ngay lập tức hướng giải quyết vụ việc;
- Thông tin về quyền, lợi ích hợp pháp của nạn nhân, quyền được bảo vệ, được đối xử công bằng và tôn trọng các quyền, nghĩa vụ khác khi người được TGPL có yêu cầu;
- Trong quá trình thực hiện TGPL cho nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị mua bán, nạn nhân bị xâm hại tình dục, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật, thì tổ chức thực hiện TGPL chuyển vụ việc sang cơ quan có thẩm quyền để xử lý hoặc đề nghị cơ quan công an có biện pháp hỗ trợ, bảo đảm an toàn cho nạn nhân;
- Phối hợp với Hội Liên hiệp phụ nữ, cơ quan lao động, thương binh và xã hội, cơ sở tư vấn phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực gia đình, cơ quan, tổ chức có liên quan trong bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình.
IV. Kết quả thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực giới
1. Kết quả đạt được
Qua 05 năm triển khai thực hiện Luật trợ giúp pháp lý, đến hết tháng 6/2011, cả nước đã thực hiện 489.082 vụ việc cho 497.617 đối tượng (trung bình mỗi năm thực hiện hơn 97.800 vụ việc với hơn 99.500 đối tượng), trong đó có 284.696 nam (chiếm 57,2%) và 212.921 nữ (chiếm 42,8%)[4].
Cũng theo thống kê của Cục Trợ giúp pháp lý, trong tổng số người được TGPL thì nữ giới chiếm trên 40%. Tỷ lệ vụ việc TGPL cho phụ nữ ở các Trung tâm tăng đều hàng năm. Điển hình là các tỉnh tham gia thực hiện thí điểm lồng ghép giới như: Bến Tre; Thanh Hoá, Thái Bình, Bắc Giang. Năm 2007, tại 5 tỉnh thực hiện thí điểm lồng ghép giới có 3.248 phụ nữ được TGPL, năm 2008 là 4.160 người. Trong tổng số vụ việc hàng năm, có trên 30% đối tượng TGPL là phụ nữ bị bạo hành, phụ nữ bị xâm hại tình dục hoặc là đại diện hợp pháp của trẻ em bị xâm hại tình dục.
Ngày 31/3/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 07/2011/TT-BTP hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động TGPL. Sau 02 năm triển khai thực hiện Thông tư số 07, các Trung tâm đã thực hiện TGPL cho 42.140 phụ nữ, trong đó, phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình là 1.061 người; nạn nhân bị mua bán là 54 người; nạn nhân bị bóc lột sức lao động hoặc bị xâm hại tình dục là 268 người[5]. Chỉ tính riêng năm 2013, các Trung tâm trong cả nước đã thực hiện được 1.275 vụ việc TGPL cho phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình, trong đó, tham gia tố tụng hình sự là 93 vụ việc.
Thông tư số 07 được thay thế bởi Thông tư số 11/2014/TT-BTP. Sau khi tổ chức triển khai thi hành Thông tư số 11, trong 6 tháng đầu năm 2014, các Trung tâm trong cả nước đã thực hiện được 85 vụ việc TGPL cho phụ nữ, trẻ em gái là nạn nhân bạo lực gia đình; 54 vụ việc TGPL cho phụ nữ, trẻ em bị xâm hại tình dục; 74 vụ việc TGPL cho nạn nhân bị mua bán.
2. Những rào cản trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực giới
Thứ nhất, không phải tất cả nạn nhân bạo lực giới đều được TGPL. Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành xác định diện người được TGPL mới chỉ dựa trên tính chất, đặc điểm của đối tượng mà chưa tính đến tính chất của vụ việc, đặc biệt là trong các vụ việc liên quan đến phòng, chống bạo lực gia đình, mua bán người, bạo lực trên cơ sở giới; chưa tính đến điểm khác biệt về giới...Vì vậy, chỉ khi nạn nhân bạo lực giới thuộc diện người được TGPL theo quy định tại Điều 10 Luật TGPL, Điều 2 Nghị định 07/NĐ-CP; Điều 1 Nghị định 14/NĐ-CP thì mới được TGPL.
 Thứ hai, khi TGPL trong trường hợp phụ nữ là người bị hại thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để xử lý người có hành vi bạo lực gia đình còn gặp vướng mắc trong các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (ví dụ: tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên là cơ sở pháp lý để xử lý hình sự các hành vi bạo lực gia đình gây thương tích cho người khác và tỷ lệ này chỉ có thể xác định trên cơ sở kết luận của giám định pháp y). Mặt khác, luật lại quy định chỉ sau khi có quyết định khởi tố vụ án thì các cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền trưng cầu giám định pháp y. Do đó, cơ quan tiến hành tố tụng khi nhận được thông tin về bạo lực gia đình không thuộc trường hợp nghiêm trọng gây thương tích nặng cho nạn nhân (thực tế rất phổ biến) thường không khởi tố vụ án. Phần nạn nhân thì lúng túng với đòi hỏi phải có chứng cứ về tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên khi thực hiện quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Không chỉ có vậy, theo qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171, việc khởi tố một số vụ án liên quan đến bạo lực gia đình phải theo yêu cầu của người bị hại và nhiều khi không thể giải quyết vì nạn nhân không yêu cầu khởi tố hoặc đã yêu cầu những lại rút đơn.
Thứ ba, khi nữ giới là nạn nhân bạo lực gia đình yêu cầu TGPL thì trong một số trường hợp lại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thụ lý yêu cầu của họ. Trên thực tế, hoạt động TGPL theo từng vụ việc chỉ diễn ra sau khi người được TGPL cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh mình là nạn nhân bạo lực gia đình. Do đó, nhiều phụ nữ là nạn bạo lực gia đình khi đến với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thường không có giấy tờ, biên bản, xác nhận của các cơ quan chức năng như: Công an, Bệnh viện, Uỷ ban nhân dân hay Trưởng thôn,... vì thế gặp khó khăn trong việc làm thủ tục cử Trợ giúp viên, Luật sư - Cộng tác viên tham gia tố tụng hoặc do họ không biết đến tổ chức thực hiện TGPL để được yêu cầu cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc Luật sư - Cộng tác viên đại diện, bào chữa miễn phí.
Thứ tư, nhiều phụ nữ vẫn chưa biết được về quyền được TGPL hoặc còn e ngại khi tiếp cận với TGPL. Những người được hưởng dịch vụ TGPL là phụ nữ, nhất là phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị xâm phạm tình dục…họ thường cam chịu, không dám lên tiếng, do vậy rất khó khăn cho những người trực tiếp thực hiện TGPL.
Thứ năm, sự phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong TGPL cho nạn nhân bạo lực giới có lúc có nơi còn lúng túng, chưa hiệu quả, nhất là giữa các tổ chức thực hiện TGPL với các cơ sở hỗ trợ, trợ giúp, bảo vệ nạn nhân cũng như sự tham gia và thể hiện vai trò của Hội Phụ nữ và các đoàn thể trong công tác này. Một số chính quyền địa phương coi công tác phòng, chống bạo lực giới chỉ là hoạt động bề nổi, chưa thực sự coi là một nhiệm vụ quản lý nhà nước cần phải thực hiện; chưa gần dân, hiểu dân, chưa động viên được các đối tượng là nữ giới cung cấp các thông tin về việc bị bạo lực, bị xâm hại tình dục…để được TGPL.
Thứ sáu, người thực hiện TGPL tại nhiều Trung tâm còn chưa được đào tạo bài bản về kỹ năng làm việc với nạn nhân bạo lực giới, và với không ít Trung tâm thì việc cung cấp các dịch vụ hiệu quả và nhạy cảm cho những đối tượng  này là một thách thức lớn. Do thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết để làm việc với nạn nhân, người thực hiện TGPL có thể không hiểu được những sự phức tạp mà phụ nữ gặp phải khi phải đưa ra quyết định về các mối quan hệ của mình. Họ có thể sẽ cảm thấy bực bội khi nạn nhân của bạo lực gia đình thay đổi quyết định truy tố của mình đối với những kẻ phạm tội.
3. Giải pháp trong thời gian tới
Thứ nhất, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật TGPL để thực hiện việc lồng ghép vấn đề giới và bảo đảm bình đẳng giới trong hoạt động TGPL; nghiên cứu, bổ sung một số phụ nữ trong một số trường hợp, vụ việc cụ thể, do tính chất giới nên cần phải được TGPL (quy định tất cả nữ giới là nạn nhân của bạo lực gia đình, bị xâm hại tình dục...), bảo đảm phụ nữ trong các trường hợp này khi có nhu cầu đều được TGPL.
Thứ hai, hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với nạn nhân bị mua bán nói chung và chính sách, pháp luật hình sự và tố tụng hình sự nói riêng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bị mua bán.
Thứ ba, làm rõ cơ chế phối hợp và tăng cường sự phối hợp giữa các tổ chức thực hiện TGPL với các cơ sở hỗ trợ, trợ giúp, bảo vệ nạn nhân và các cấp chính quyền cơ sở cũng như các đoàn thể xã hội, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong hoạt động TGPL, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân, tham gia phòng, chống bạo lực giới...; làm tốt công tác tư vấn hòa giải; nâng cao hơn nữa trình độ hiểu biết và năng lực của người phụ nữ trong gia đình và xã hội qua việc tổ chức các buổi sinh hoạt, các lớp tập huấn dành riêng cho chị em phụ nữ hoặc xây dựng các câu lạc bộ và các trung tâm tư vấn về hôn nhân và gia đình cho chị em. Trung tâm TGPL cần xây dựng kế hoạch truyền thông giới thiệu pháp luật về TGPL và phòng, chống bạo lực giới, cung cấp số điện thoại đường dây nóng, danh sách địa chỉ, số điện thoại của người thực hiện TGPL, Trung tâm và Chi nhánh, các tổ chức tham gia TGPL. Hoạt động truyền thông có hiệu quả sẽ giúp cộng đồng, đặc biệt là nhóm đối tượng bị bạo lực giới biết và tìm đến các tổ chức thực hiện TGPL để được trợ giúp nhiều hơn.
Thứ tư, nâng cao năng lực, kỹ năng TGPL cho người thực hiện TGPL trong các vụ việc liên quan đến bạo lực giới
Thứ năm, bảo đảm kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác bảo đảm bình đẳng giới; phòng, chống bạo lực gia đình; phòng, chống mua bán người; phòng, chống hành vi xâm hại tình dục và các chế độ, chính sách hỗ trợ cho nạn nhân.
Phòng Quản lý chất lượng
 

[1] Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Điều 2); Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 (Điều 1).
[2]ở nông thôn có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống; ở thành thị có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
 
[3] Khoản 1 Điều 45 Luật TGPL quy định vụ việc bị từ chối hoặc không được tiếp tục thực hiện khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người có yêu cầu TGPL không thuộc đối tượng được TGPL quy định tại Điều 10 của Luật này;
b) Người được TGPL cố tình cung cấp thông tin, tài liệu sai sự thật về vụ việc;
c) Người được TGPL vi phạm nghiêm trọng nội quy hoặc có hành vi làm mất trật tự nơi thực hiện TGPL;
d) Người được TGPL rút yêu cầu TGPL;
đ) Vụ việc đang được một tổ chức thực hiện TGPL khác trợ giúp;
e) Vụ việc TGPL không phù hợp với quy định tại Điều 5 và Điều 26 của Luật này;
g) Vụ việc TGPL thuộc trường hợp chuyển vụ việc TGPL quy định tại Điều 37 của Luật này.
[4] Báo cáo số 06/BC-BTP ngày 11/01/2012 của Bộ Tư pháp về kết quả 05 năm triển khai thi hành Luật trợ giúp pháp lý, tr.12; .
[5] Báo cáo số 447/BC-CTGPL ngày 20/9/2013 của Cục trợ giúp pháp lý về kết quả 02 năm triển khai thực hiện Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày 31/3/2011 hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, tr.3.
 

Xem thêm »