Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Khoán chi trong hoạt động trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng hình sự: Vướng mắc từ tư cách tố tụng và yêu cầu thống nhất áp dụngThông tư số 02/2021/TT-BTP thiết lập bước chuyển quan trọng: từ việc tính theo “giờ làm việc” sang phương thức khoán theo “đầu công việc” đã chuẩn hóa, qua đó giảm gánh nặng hành chính và khuyến khích người thực hiện TGPL tối ưu hóa năng suất.Tuy nhiên, quá trình triển khai thực tiễn cho thấy vẫn tồn tại những điểm chưa thống nhất, đặc biệt liên quan đến phạm vi tư cách tham gia tố tụng nào được áp dụng khoán chi và cách xử lý các vụ việc kéo dài từ giai đoạn tiền tố tụng sang tố tụng hình sự.
Bài viết phân tích dưới góc nhìn hệ thống và thực tiễn nhằm làm rõ phạm vi áp dụng cơ chế khoán chi trong các vụ việc tham gia tố tụng hình sự, đồng thời đề xuất một số hướng hoàn thiện để thống nhất cách hiểu trong toàn ngành.
Điều kiện áp dụng khoán chi theo Thông tư 02/2021/TT-BTP
Nhìn vào cấu trúc Thông tư 02, có thể thấy Bộ Tư pháp xây dựng hai trục chính: (i) trục “thời gian làm việc thực tế” (Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 8), và (ii) trục “khoán chi vụ việc” (Điều 9, Điều 10 và các Phụ lục kèm theo). Về mặt pháp lý, đây là hai cơ chế thay thế, chứ không song hành trong cùng một vụ việc: người thực hiện TGPL phải lựa chọn hình thức khoán chi ngay sau khi được phân công, và lựa chọn này có hiệu lực cho toàn bộ quá trình thực hiện vụ việc đó.
Điều 9 Thông tư 02 quy định rõ: khoán chi “chỉ áp dụng đối với vụ việc TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng”, và việc xác định mức khoán chi trong tố tụng hình sự phải dựa trên phân loại tội phạm theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào các văn bản tố tụng như Quyết định khởi tố bị can, Kết luận điều tra, Cáo trạng, Bản luận tội, Bản án. Như vậy, về mặt logic hệ thống, khoán chi trong hình sự chỉ có thể vận hành khi đã có bị can, tức là khi vụ án đã thực sự bước vào giai đoạn tố tụng hình sự với đầy đủ thiết chế tố tụng.
Tư cách tham gia tố tụng và phạm vi được khoán chi
Từ điểm xuất phát này, câu hỏi đặt ra: đối với những người tham gia tố tụng khác (ngoài bị can, bị cáo) mà thuộc diện được TGPL, họ sẽ được thanh toán thù lao cho trợ giúp viên pháp lý, luật sư theo phương thức nào?
Cụ thể, như người làm chứng dưới 18 tuổi, người tố giác tội phạm, người bị tố giác, người kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự… khi tham gia tố tụng thì được áp dụng khoán chi trọn gói hay chỉ thanh toán theo thời gian thực tế? Thông tư 02 không trả lời câu hỏi này theo kiểu “điểm danh từng tư cách”, mà ẩn chứa câu trả lời trong kỹ thuật lập quy, buộc người đọc phải giải thích theo phương pháp hệ thống và mục đích.
Giải thích khoản 4 Điều 8 và vấn đề giai đoạn tiền tố tụng
Đối với giai đoạn trước khởi tố bị can – giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố – Thông tư 02 dành hẳn một quy định riêng tại Điều 8 khoản 4. Ở đây, người thực hiện TGPL được thanh toán dựa trên thời gian xác minh, thu thập, đánh giá tài liệu, đồ vật, chứng cứ; thời gian tham gia lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại hoặc người liên quan; thời gian gặp gỡ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, người thân thích và những người khác có liên quan.
Mặc dù Điều 8 khoản 4 có sử dụng cách diễn đạt về số ‘buổi khoán chi’, nhưng điều này không có nghĩa là giai đoạn trước khởi tố được áp dụng khoán chi. Thực chất, Thông tư 02 vẫn áp dụng cách tính theo thời gian thực tế ở giai đoạn tiền tố tụng; chỉ là để tránh việc kê khai thời gian không kiểm soát, Thông tư đặt ra giới hạn tối đa (một “trần” thời gian) cho một số công việc. Giới hạn này được tham chiếu theo khung số buổi của Phụ lục 01 (dành cho khoán chi) như một thước đo định lượng, chứ không phải cho phép khoán chi khi chưa khởi tố vụ án.
Cách giải thích hợp lý hơn là: ở giai đoạn tiền tố tụng, Thông tư 02 vẫn giữ nguyên cơ chế “thời gian thực tế”, nhưng để tránh việc kê khai kéo dài vô hạn, Nhà nước đặt một “trần” thời gian tối đa cho một số dạng công việc, và để thuận tiện, họ dùng chính “khung buổi” của Phụ lục 01 (vốn thiết kế cho khoán chi) làm chuẩn quy chiếu cho giới hạn này. Nói cách khác, đây là việc sử dụng kỹ thuật khoán chi như một thước đo định lượng, chứ không phải là cho phép áp dụng hình thức khoán chi đối với giai đoạn chưa có bị can. Điều này phù hợp với nguyên tắc: khi chưa có tội danh, chưa có phân loại tội phạm, thì không thể xác lập mức khoán chi dựa trên loại tội – vốn là nền tảng của toàn bộ Phụ lục 01.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho các bị cáo tại TAND khu vực 8 tỉnh An Giang - Ảnh minh họa.
Các trường hợp vụ việc kéo dài qua hai giai đoạn và nguy cơ hiểu sai
Khi vụ án đã được khởi tố bị can, bức tranh thay đổi căn bản. Ở thời điểm này, bị can, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, đương sự trong vụ án hình sự đều là những “người tham gia tố tụng” theo Bộ luật Tố tụng hình sự, và nếu họ thuộc đối tượng được TGPL, thì vụ việc TGPL cho họ là “vụ việc tham gia tố tụng hình sự” đúng nghĩa. Các nhóm công việc được liệt kê tại Điều 4 Thông tư 02 – từ tham gia hỏi cung, đối chất, nhận dạng, khám nghiệm hiện trường đến gặp gỡ người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị luận cứ, tham gia phiên tòa – được thiết kế một cách “trung tính về tư cách”: cùng một loại công việc có thể phục vụ cho quyền lợi của bị can, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc thậm chí người làm chứng, tùy theo chiến lược bào chữa hoặc bảo vệ mà người thực hiện TGPL lựa chọn.
Chính vì vậy, Phụ lục 01 không tách riêng “khung khoán chi cho bị hại” hay “khung khoán chi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”, mà quy định theo nhóm công việc gắn với loại tội phạm và giai đoạn tố tụng. Cơ chế này phản ánh tư duy: Nhà nước khoán theo “gói công việc” mà người thực hiện TGPL phải làm cho một vụ việc hình sự với tội phạm nhất định, bất kể người được TGPL trong vụ việc đó mang tư cách tố tụng nào.
Từ cách hiểu hệ thống như vậy, có thể đi đến một số kết luận kỹ thuật:
Thứ nhất, TGPL cho người tố giác, người bị tố giác, người kiến nghị khởi tố, người bị kiến nghị khởi tố, người làm chứng trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm không thuộc phạm vi áp dụng khoán chi; toàn bộ chi phí bồi dưỡng phải được tính trên cơ sở thời gian làm việc thực tế theo Điều 3, Điều 4 và Điều 8 Thông tư 02.
Thứ hai, khi vụ án đã được khởi tố bị can, nếu người được TGPL là bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người thực hiện TGPL lựa chọn hình thức khoán chi ngay sau khi được phân công, thì vụ việc này hoàn toàn đủ điều kiện áp dụng khoán chi, bởi lẽ: (i) đây là vụ việc tham gia tố tụng hình sự đúng nghĩa; (ii) loại tội phạm đã được phân loại ở mức tương đối ban đầu (có thể thay đổi tội danh trong quá trình tố tụng); (iii) các công việc TGPL mà người thực hiện tiến hành đều nằm trong các nhóm công việc được quy định trong Điều 4 và Phụ lục 01.
Thứ ba, trong thực tế công tác, sẽ có những vụ việc bắt đầu từ giai đoạn tiền tố tụng (giải quyết tố giác, tin báo) và sau đó chuyển sang giai đoạn tố tụng khi có quyết định khởi tố bị can; ở đây, về mặt lý luận, có thể coi phần việc trước khởi tố phải thanh toán theo thời gian thực tế, còn phần việc sau khởi tố – nếu người thực hiện TGPL lựa chọn khoán chi tại thời điểm được phân công tham gia tố tụng – thì được áp dụng cơ chế khoán chi. Tuy nhiên, Thông tư 02 hiện chưa quy định rõ ràng về “điểm chuyển trạng thái” này của cùng một vụ việc, nhưng có lẽ nếu người thực hiện TGPL lựa chọn khoán chi thì sẽ áp dụng khoán chi cho toàn bộ vụ việc kể từ khi tham ở giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác tội phạm.
Mục đích của khoán chi – như đã nói từ đầu – là nâng cao hiệu quả làm việc: cùng một quỹ thời gian, người thực hiện TGPL có thể tham gia xử lý nhiều vụ việc hơn, đồng thời buộc họ chịu trách nhiệm về chất lượng qua việc phải hoàn thành đầy đủ các nhóm công việc được quy định trong Phụ lục; nếu không thực hiện một hoặc một số công việc, mức khoán sẽ bị trừ tương ứng. Chính sách này tạo ra một “áp lực tích cực”: muốn được hưởng trọn mức khoán, phải thực sự làm hết các đầu việc quan trọng cho người được TGPL. Đồng thời, nhờ không phải kê khai chi tiết từng giờ, từng phút, người thực hiện TGPL giảm đáng kể gánh nặng hành chính, dành nhiều thời gian hơn cho nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị luận cứ, làm việc với người được TGPL và cơ quan tiến hành tố tụng. Khi áp dụng đúng, cơ chế khoán chi dung hòa được ba yếu tố: số lượng vụ việc tăng, chất lượng không giảm, và chi phí quản lý hành chính được tiết kiệm.
Tuy nhiên, để cơ chế đó phát huy đúng mục đích, điều kiện tiên quyết là cách hiểu và cách áp dụng phải thống nhất. Việc Thông tư 02 sử dụng “ngôn ngữ khoán chi” trong Điều 8 khoản 4 (đối với giai đoạn tiền tố tụng) nhưng lại không cho phép khoán chi thực sự đối với giai đoạn này là một thiết kế kỹ thuật tinh tế, song cũng dễ gây nhầm lẫn nếu chỉ đọc câu chữ theo nghĩa đen mà không đặt vào tổng thể văn bản. Cộng với thực tế mỗi địa phương có cách giải thích khác nhau, không chỉ giữa các Trung tâm TGPL nhà nước với nhau mà ngay trong nội bộ ngành còn tồn tại nhận thức chưa thống nhất về việc người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,… được khoán chi trong những trường hợp nào, dẫn đến nguy cơ áp dụng không đều, thậm chí hạn chế quá mức quyền lợi chính đáng của người thực hiện TGPL.
Hướng dẫn khởi kiện TAND khu vực 5 tỉnh An Giang - Ảnh minh họa.
Kiến nghị hoàn thiện và lưu ý áp dụng
Với tư cách một người trong nghề, tôi cho rằng thực tế tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự, vai trò của những người này thấp hơn nhiều so với bị can, bị cáo, bị hại và thời gian làm việc với họ cũng như các công việc có liên quan rất ít, có khi chỉ một buổi, một vài giờ. Họ thường vắng mặt trong giai đoạn truy tố cũng như xét xử, nếu đã có lời khai đầy đủ ở giai đoạn điều tra.
Cho nên, nếu lựa chọn khoán chi với các đối tượng này, nhận thù lao ở mức thấp nhất theo Phụ lục 1 “Trường hợp số buổi quy đổi để khoán chi vụ việc thấp hơn 03 mức lương cơ sở thì được khoán chi vụ việc bằng 03 mức lương cơ sở” là bất cập, vì thực tế tham gia thấp hơn nhiều so với mức thấp nhất này. Vì vậy, cách tốt nhất đó là nội bộ Trung tâm nên quy định thanh toán thù lao cho các đối tượng này theo thời gian làm việc thực tế, để đảm bảo sự hài hòa trên nguyên tắc có làm có hưởng, không làm không hưởng.
Thời gian ngày 01/01/2026 đang đến gần, các nhóm đối tượng người dưới 18 tuổi tham gia tố tụng theo Luật Tư pháp người chưa thành niên được TGPL sẽ rất nhiều, Bộ Tư pháp cần hướng dẫn cụ thể hoặc tài liệu nghiệp vụ chính thức, làm rõ các điểm sau: (i) xác định dứt khoát giai đoạn, tư cách tham gia tố tụng nào không thuộc phạm vi khoán chi (tiền tố tụng, người tố giác, người bị tố giác, người kiến nghị khởi tố, người bị kiến nghị khởi tố, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự); (ii) khẳng định phạm vi tư cách được khoán chi sau khi khởi tố bị can (bị can, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, đương sự trong vụ án hình sự, nếu thuộc diện được TGPL); (iii) hướng dẫn rõ cơ chế xử lý các vụ việc “chạy dài” từ giai đoạn tiền tố tụng sang giai đoạn tố tụng, trong đó phần việc trước khởi tố thanh toán theo thời gian thực tế, phần việc sau khởi tố được phép khoán chi nếu đáp ứng điều kiện.
Những phân tích và ý kiến trong bài viết này, tác giả hy vọng đóng góp góc nhìn thực tiễn để cùng hướng tới cách hiểu thống nhất và áp dụng hiệu quả cơ chế khoán chi trong TGPL.
Định Giang