Xem cỡ chữ
Đọc bài viết
In trang
Trợ giúp pháp lý trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam Ngày 10/12 hằng năm được Liên hợp quốc chọn là Ngày Nhân quyền thế giới. Trong nhiều năm qua, công tác trợ giúp pháp lý đã và đang nỗ lực không ngừng để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính sách trợ giúp pháp lý ở Việt Nam
Ngày nay, có thể thấy rằng vấn đề quyền con người là một chủ đề được cộng đồng quốc tế và các quốc gia dành sự quan tâm đặc biệt. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay thì khó có một quốc gia nào trên thế giới có thể đứng ngoài sự tác động của các vấn đề về quyền con người và dự đoán trong tương lai, sự tác động đó sẽ ngày càng lớn hơn. Tại Việt Nam, ghi nhận và bảo đảm quyền con người luôn được Nhà nước coi trọng và thúc đẩy. Điều này được thể hiện thông qua nhiều chủ trương, chính sách cũng như quy định pháp luật có liên quan đến quyền con người tại Việt Nam trong nhiều năm qua. Trong các chính sách đó có thể kể đến chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương... và kết quả của hoạt động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua cũng góp phần vào công tác bảo vệ quyền con người ở Việt Nam.
Ngày 31/5/1995 của Văn phòng Trung ương Đảng đã ra Thông báo số 485/CV-VPTW về ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư đối với Quy chế hành nghề tư vấn pháp luật đã đề nghị Ban cán sự Đảng Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp: “cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ tư vấn pháp luật không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”. Trong thư ngày 20/12/1995 gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười một lần nữa nhấn mạnh: “Nhà nước phải nghiên cứu sớm thành lập một hệ thống các tổ chức tư vấn pháp luật không mất tiền dành cho người nghèo, các gia đình thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số”. Những chỉ đạo này đã định hướng đổi mới tư duy về công tác cung ứng dịch vụ pháp lý, đặt dấu mốc cho quá trình chuyển biến trong nhận thức, tạo tiền đề về mặt chính trị - pháp lý cho sự ra đời và phát triển của công tác TGPL trong giai đoạn tiếp theo.
Tại kỳ họp lần thứ 3, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII ngày 18/6/1997, lần đầu tiên trong Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ đạo định hướng triển khai công tác TGPL theo hướng: “Tổ chức hình thức tư vấn pháp luật cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí”. Đây là cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng, tiếp tục khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận pháp luật của người nghèo và nhóm yếu thế. Trên cơ sở đó Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Triển khai Quyết định này, hệ thống tổ chức thực hiện TGPL đã được thành lập trong cả nước. Cục Trợ giúp pháp lý thuộc Bộ Tư pháp được thành lập giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về TGPL trong toàn quốc từ năm 1997.
Ngày 20/6/2006, Quốc hội khóa X đã ban hành Luật TGPL, đánh dấu bước phát triển mới trong hoạt động TGPL. Sau 11 năm tổ chức thi hành, trước yêu cầu phát triển của đất nước, triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, nhiều đạo luật, luật về tố tụng quan trọng mới được Quốc hội ban hành, công cuộc tăng cường cải cách pháp luật, cải cách tư pháp… đã đặt ra yêu cầu cần đổi mới công tác TGPL theo hướng tập trung thực hiện vụ việc TGPl, ngày 20/6/2017, Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật TGPL năm 2017 (100% đại biểu có mặt tán thành).
Lễ ký Chương trình phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Tư pháp về trực TGPL trong điều tra hình sự.
Công tác trợ giúp pháp lý đã được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước với việc ban hành Luật Trợ giúp pháp lý[1] và giao nhiệm vụ cho công tác tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Đặc biệt, gần đây đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm trong buổi làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có đánh giá công tác trợ giúp pháp lý thời gian qua đã được triển khai rộng rãi, với nhiều phương thức đa dạng, góp phần nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật trong xã hội; đồng thời có chỉ đạo trong thời gian tới cần phát huy vai trò của trợ giúp pháp lý trong thực hiện các chính sách an sinh xã hội[2].
Cùng với đó, các quy định về trợ giúp pháp lý cũng đã được đồng bộ hóa trong các Bộ luật, luật khác như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Mới đây, tại kỳ họp thứ 8 khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), trong đó có quy định sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý theo hướng mở rộng thêm nhiều diện người được trợ giúp pháp lý miễn phí so với trước đây: (1) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, bị hại, người làm chứng, người chấp hành biện pháp xử lý chuyển hướng, phạm nhân”[3] (theo Luật Tư pháp người chưa thành niên, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026); (2) Nạn nhân của hành vi mua bán người, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân (theo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025)[4]. Việc mở rộng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý vừa đáp ứng thực tiễn nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, không có khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý có thu phí, kịp thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ có vướng mắc về pháp luật, tạo niềm tin của người dân về các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.
Đồng thời, trợ giúp pháp lý còn là một trong những nội dung triển khai trong 03 Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025. Mới đây, tại kỳ họp thứ 8 khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025 - 2035 và Chương trình Mục tiêu quốc gia về phòng, chống ma túy đến năm 2030 (trong đó có nội dung về trợ giúp pháp lý).
Điều đó chứng tỏ vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bởi những kết quả tích cực trong thời gian qua. Mặt khác, các quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đã góp phần nội luật hóa các cam kết quốc tế về quyền con người trong các Điều ước quốc tế, Công ước quốc tế. TGPL trở thành một trong những nội dung quan trọng trong các điều ước quốc tế về nhân quyền[5], các Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự[6]. Như vậy, có thể nói rằng, trong công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với những kết quả đã đạt được, trợ giúp pháp lý đã thể hiện rõ nét chức năng xã hội của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật; góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và thực hiện chính sách an sinh xã hội, phát triển sinh kế, giảm nghèo bền vững…, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế trong việc bảo vệ quyền con người, phù hợp xu thế phát triển chung của thế giới.
* Sau đây là một vài điểm nổi bật của chính sách trợ giúp pháp lý ở Việt Nam:
i) Về diện người được trợ giúp pháp lý miễn phí:
Trong quá trình nghiên cứu, so sánh quy định về diện người được trợ giúp pháp lý tại Việt Nam[7] với một số Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966, Công ước quốc tế về quyền trẻ em và một số thông lệ chung của một số nước đã nghiên cứu... Có thể thấy rằng, về diện người được trợ giúp pháp lý của Việt Nam đã đáp ứng các cam kết quốc tế tại Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về quyền trẻ em mà Việt Nam là thành viên và tương đồng với thông lệ các nước trên thế giới và có tính đến đặc thù của đất nước về chính sách đền ơn đáp nghĩa và chính sách dân tộc.... Theo thống kê, người thuộc diện trợ giúp pháp lý chiếm khoảng 45% dân số. Trong tương quan với người thuộc diện trợ giúp pháp lý ở các nước có thể thấy diện người được trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam là khá rộng. Bên cạnh đó, người được trợ giúp pháp lý ở Việt Nam được miễn phí hoàn toàn khi sử dụng dịch vụ. Đặt trong bối cảnh Việt Nam không phải là một nước giàu, chúng ta là một nước đang phát triển và so sánh với một số nước trên thế giới thì có thể nói rằng, số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí ở Việt Nam là rất lớn. Điều đó cho thấy rằng đây là một trong những chính sách thể hiện tính nhân văn của Đảng, Nhà nước ta, qua đó đảm bảo quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long trình bày dự án Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi)
tại Quốc hội
ii) Trợ giúp viên pháp lý có tiêu chuẩn, trình độ như luật sư
Ở Việt Nam, nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL là mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động TGPL, pháp luật về TGPL luôn được hoàn thiện để đảm bảo mục tiêu này. Theo quy định pháp luật TGPL, người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm: Trợ giúp viên pháp lý (viên chức thực hiện trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp thuộc số lượng người làm việc của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, về bản chất là luật sư nhà nước/luật sư công); Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên pháp luật; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý. Hiện nay, Trợ giúp viên pháp lý là lực lượng nòng cốt cung cấp dịch vụ TGPL đã được chuẩn hóa tiêu chuẩn về đào tạo, chuyên môn nghiệp vụ tương đương với luật sư. Như vậy, có thể thấy rằng so sánh với quy định về người thực hiện TGPL ở nhiều nước trên thế giới cho thấy người thực hiện TGPL ở Việt Nam cũng khá tương đồng với nhiều các nước. Việc Luật TGPL năm 2017 quy định tiêu chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý ngang bằng với luật sư là một điểm tiến bộ so với trước đây. Đến hết năm 2024, trên toàn quốc có 63 Trung tâm TGPL nhà nước và 96 Chi nhánh TGPL (ở mỗi tỉnh, thành phố có 01 Trung tâm và có thể có Chi nhánh), với 702 trợ giúp viên pháp lý/trên tổng số khoảng 1240 viên chức (hiện nay trợ giúp viên pháp lý đầy đủ 3 hạng (hạng I, II, III), đây là chức danh duy nhất thuộc ngành tư pháp ở địa phương có chức danh nghề nghiệp hạng I.
iii) Hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý
TGPL ở Việt Nam được xác định là một dịch vụ pháp lý, được thực hiện bằng các hình thức tư vấn pháp luật, tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng; được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực, chỉ trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Theo WTO dịch vụ pháp lý được quy định khái quát “bao gồm các lĩnh vực tư vấn và đại diện đối với pháp luật nước tiếp nhận dịch vụ, pháp luật của nước sở tại, nước thứ ba, luật pháp quốc tế; dịch vụ chứng thực giấy tờ tài liệu; các dịch vụ tư vấn và thông tin khác”. Cụ thể theo WTO, dịch vụ pháp lý (legal services) bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ tranh tụng cũng như toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc thi hành công lý (như hoạt động của thẩm phán, công tố viên, v.v...). Có thể nói rằng, trợ giúp pháp lý ở Việt Nam được coi là một “nghề” với đầy đủ các yếu tố của dịch vụ pháp lý theo quy định WTO. Hình thức, lĩnh vực TGPL là rộng và bao quát.
iv) Về phối hợp trợ giúp pháp lý trong tố tụng, trực trợ giúp pháp lý:
Ở Việt Nam, đã tổ chức huy động các cơ quan tư pháp, tố tụng, lực lượng công an, tòa án vào công tác TGPL. Hiện nay, Bộ Tư pháp (Cục TGPL tham mưu) đang là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp liên ngành về trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng ở Trung ương, có trách nhiệm điều phối hoạt động của Hội đồng này[8]. Trong thời gian gần đây, TGPL trong hoạt động tố tụng phải triển khai nhiều nhiệm vụ mới với sự phối hợp với các Bộ, ngành liên quan như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao... như: người thực hiện TGPL trực tại Tòa án trong phạm vi toàn quốc[9], phối hợp trực TGPL trong điều tra hình sự 24/24 giờ trên toàn quốc từ cơ quan điều tra cấp Trung ương đến cấp tỉnh, cấp huyện, công an cấp xã, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, hệ thống cơ sở giam giữ của Công an nhân dân và Trung tâm TGPL nhà nước[10]. Các hoạt động trực này đã huy động cả hệ thống tòa án (gồm khoảng hơn 700 tòa các cấp) và công an (khoảng hơn 10.000 cơ quan công an cấp xã, 700 cơ quan công an cấp huyện, cấp tỉnh, cơ quan điều tra cấp Bộ....) cung cấp, giới thiệu nguồn đối tượng được TGPL. Bên cạnh đó, để triển khai việc hoạt động TGPL ở chính quyền các cấp tỉnh, huyện, xã, Cục TGPL đã triển khai hướng dẫn triển khai nội dung TGPL cho cơ quan, tổ chức: ở cấp tỉnh có Sở Tư pháp[11], ở cấp huyện có Phòng Tư pháp[12], ở cấp xã có UBND cấp xã[13] (Cán bộ Tư pháp – hộ tịch...). Cùng với đó, Trung tâm TGPL nhà nước đã được quy định tham gia phiên tòa trực tuyến với vai trò là một điểm cầu thành phần[14], tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL trong việc tham gia tố tụng tại phiên tòa trực tuyến.
Nhãn
Trợ giúp pháp lý cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự
2. Một số kết quả triển khai chính sách trợ giúp pháp lý trong thời gian qua
Là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu của ngành Tư pháp[15], trong thời gian qua các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc đã nỗ lực, tích cực trong cung cấp các dịch vụ pháp lý miễn phí trong các vụ việc cụ thể cho người nghèo, người có công với cách mạng, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn và các nhóm người yếu thế, dễ tổn thương khác trong xã hội, qua đó góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Sau hơn 27 năm thành lập, đặc biệt là từ khi đổi mới công tác TGPL và sau hơn 6 năm triển khai Luật TGPL năm 2017 đến nay, hệ thống TGPL ở Trung ương và địa phương đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận: Thể chế về TGPL ngày càng được hoàn thiện; tổ chức thực hiện TGPL được sắp xếp, tăng cường; hoạt động TGPL ngày càng đi vào nề nếp, tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện vụ việc, nhất là vụ việc tham gia tố tụng; chất lượng dịch vụ TGPL ngày càng được nâng cao, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL. Truyền thông về TGPL ngày càng hiệu quả với nhiều hình thức đa dạng; ứng dụng công nghệ thông tin bước đầu để nâng cao hiệu quả quản lý và thực hiện TGPL. Hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước TGPL được tăng cường, đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Bộ, ngành Tư pháp và vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
Số lượng vụ việc cung cấp cho người dân ngày càng tăng, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu của người dân yếu thế trong xã hội. Từ 1997 – nay, các tổ chức thực hiện TGPL trên toàn quốc đã thực hiện được hơn 2,3 triệu vụ việc cho người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các diện người được TGPL khác theo quy định. Số vụ việc TGPL tham gia tố tụng đạt mốc cao nhất từ trước đến nay. Riêng năm 2024, các Trung tâm thực hiện 63.361 vụ việc, trong đó thụ lý mới 39.641 vụ việc (chủ yếu là vụ việc TGPL tham gia tố tụng với 32.748 vụ). Số vụ việc kết thúc trong năm là 37343 vụ việc, trong đó có 30.538 vụ việc tham gia tố tụng. Với số liệu này, số lượng vụ việc tham gia tố tụng trong năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm 2023 và đạt mốc cao nhất từ trước đến nay. Hầu hết các vụ việc đều đạt chất lượng trở lên, rất nhiều vụ việc tham gia tố tụng thành công, được các cơ quan tiến hành tố tụng ghi nhận, người được TGPL được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân hoặc người được TGPL được tăng mức bồi thường thiệt hại, đòi được quyền sử dụng đất…
Ảnh: Trợ giúp pháp lý cho người bị buộc tội trong vụ án hình sự
Với những kết quả đạt được, TGPL đã khẳng định được vai trò của mình là dịch vụ công thiết yếu, là trách nhiệm của Nhà nước đối với người nghèo, người yếu thế, đối tượng chính sách trong xã hội, qua đó góp phần bảo đảm an sinh xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và khẳng định tính ưu việt của Nhà nước ta trong bảo đảm các cam kết quốc tế về quyền con người.
Với những kết quả trên có thể khái quát về vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam như sau:
- Hoạt động trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền con người, bảo đảm công bằng trong việc tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý đồng thời góp phần bảo đảm chính sách an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước chịu trách nhiệm trong việc bảo đảm cho người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội được thụ hưởng chính sách pháp luật công bằng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, trợ giúp pháp lý có vai trò giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, bảo đảm sự công bằng, bình đẳng với các nhóm người khác trong xã hội, qua đó góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội.
- TGPL góp phần bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Công cuộc cải cách tư pháp được Đảng ta đặt ra với những định hướng cơ bản mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao để bảo vệ tốt nhất quyền con người trong lĩnh vực tư pháp. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ mật thiết và trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Qua hoạt động nghiệp vụ, hoạt động trợ giúp pháp lý cũng sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp.
- Trợ giúp pháp lý là một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện các cam kết quốc tế về quyền con người tại Việt Nam. Thông qua hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của mình, trợ giúp pháp lý đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý, nhất là khi họ rơi vào tình trạng bị buộc tội, nguy cơ bị tước quyền tự do, chính là lúc Nhà nước cần có sự trợ giúp, hỗ trợ để họ được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình...
. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả, vai trò trợ giúp pháp lý trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam thời gian tới
- Tổ chức triển khai nội dung TGPL trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và các văn bản triển khai Nghị quyết.
- Tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành; tổ chức triển khai các quy định về diện người được TGPL và các nội dung TGPL trong các Luật Tư pháp người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua. Tiếp tục hoàn thiện thể chế công tác trợ giúp pháp lý phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý; bám sát tình hình, thực tiễn công tác và hoạt động trợ giúp pháp lý tại các địa phương.
- Tập trung vào thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là vụ việc tham gia tố tụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý. Tổ chức thực hiện đánh giá, thẩm định chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý, đánh giá hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng thành công.
- Tiếp tục nâng cao năng lực Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tương xứng với vị trí là đơn vị cung cấp sự nghiệp công thiết yếu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về trợ giúp pháp lý của người dân… Khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý, nhất là đội ngũ luật sư có kinh nghiệm tham gia tố tụng.
- Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, nhất là công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng về giải thích, giới thiệu, thông tin, thông báo về nhu cầu trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án, trực trợ giúp pháp lý trong điều tra hình sự, tổ chức phiên tòa trực tuyến, liên thông chia sẻ các cơ sở dữ liệu có liên quan, phối hợp chặt chẽ với chính quyền cơ sở để người dân có điều kiện thuận lợi tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý....
- Triển khai hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý và tạo sự đồng bộ với các hoạt động khác trong các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và hai Chương trình mục tiêu mới được Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư là Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ma túy và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển văn hóa cùng các dự án, chương trình, đề án khác có nội dung trợ giúp pháp lý, qua đó thể hiện vai trò tích cực trong an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
- Tiếp tục truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết về trợ giúp pháp lý của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác trợ giúp pháp lý đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới xây dựng chính phủ số nhằm tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và đẩy mạnh, tăng mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân.
- Tích cực hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, triển khai hiệu quả các dự án, chương trình với các đối tác quốc tế, tham gia các diễn đàn quốc tế cũng như khu vực về trợ giúp pháp lý nói riêng và tiếp cận công lý trong hệ thống tư pháp nói chung, xây dựng hình ảnh, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm những thành tựu của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam./.
Ngân Giang
[1] Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017
[2] Thông báo số 108-TB/TPTW ngày 18/11/2024 của Văn phòng Trung ương Đảng
[3] Theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017 quy định người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là người bị buộc tội và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ việc hình sự có khó khăn về tài chính được trợ giúp pháp lý miễn phí. So với Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành, Luật Tư pháp người chưa thành niên đã bỏ điều kiện “có khó khăn về tài chính” của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại và bổ sung thêm nhiều diện người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi được trợ giúp pháp lý.
[4] Theo Luật Trợ giúp pháp lý 2017 quy định nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người có khó khăn về tài chính. so với Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành, Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) đã bỏ điều kiện “có khó khăn về tài chính” của nạn nhân bị mua bán và bổ sung thêm 02 đối tượng là “người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân” cũng được trợ giúp pháp lý.
[5] Công ước quốc tế về quyền dân sự chính trị năm 1966; Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989…
[6] Hiện nay, qua theo dõi, Cục TGPL thấy có 12 Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự giữa Việt Nam và các nước có quy định tương trợ về TGPL (Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Angeri, Campuchia, Ba Lan, Bungari, Ca-dắc-tan, Lào, Triều Tiên, Belarus)
[7] Điều 7 Luật TGPL và mới được sửa đổi, bổ sung tại Luật Tư pháp Người chưa thành niên và Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) mới được Quốc hội thông qua tháng 11/2024
[8] Thông tư liên tịch sô 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BTC-BQP-TANDTC-VKSNDTC quy định về phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng
[9] Chương trình phối hợp 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022 của Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao
[10] Chương trình phối hợp số 5789/CTPH- BTP-BCA ngày 27/11/2023 về trực TGPL trong điều tra hình sự giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an
[11] Nghị định số 107/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
[12] Nghị định số 108/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
[13] Nghị định số 33/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố
Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP và Thông tư số 12/2018/TT-BTP
[14] Để triển khai Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV về tổ chức phiên tòa trực tuyến, liên ngành đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến
[15] Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ