Việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số

20/02/2024
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Chuyển đổi số là yêu cầu khách quan, là lựa chọn chiến lược, đã trở thành phong trào, là xu thế đang diễn ra rất mạnh mẽ, sâu rộng trên thế giới. Nhiều văn kiện và nghị quyết của Đảng đã đề cập sâu sắc về chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số trong các mục tiêu, quan điểm phát triển và đột phá chiến lược; xác định chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.

Năm 2023 là năm Dữ liệu số quốc gia, với quan điểm dữ liệu số là tài nguyên quốc gia, là nền tảng của sự phát triển, chúng ta cần nắm bắt, tận dụng cơ hội để khai thác, phát huy giá trị của dữ liệu số trở thành nguồn lực quan trọng cho phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số. Chuyển đổi số quốc gia tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia số, phát triển thịnh vượng, tiên phong ứng dụng các công nghệ mới và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện phương thức quản lý, điều hành của Chính phủ; sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; lối sống, làm việc và học tập của người dân; phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, bao trùm, rộng khắp, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Bài viết tìm hiểu về việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số với những nội dung cụ thể sau: Tìm hiểu về các dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý; thực trạng cung cấp dịch vụ này và những khó khăn, vướng mắc nhất là trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số. Đặt trong bối cảnh yêu cầu từ nhu cầu thực tiễn và các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số hiện nay.
I. Một số nội dung về dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
1. Dịch vụ công thiết yếu trong ngành Tư pháp
Theo khoản 2 Điều 3 Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập thì dịch vụ sự nghiệp công là dịch vụ sự nghiệp trong các lĩnh vực giáo dục đào tạo; giáo dục nghề nghiệp; y tế - dân số; văn hóa, thể thao và du lịch; thông tin và truyền thông; khoa học và công nghệ; các hoạt động kinh tế và lĩnh vực khác (gồm: nông nghiệp và phát triển nông thôn, tài nguyên và môi trường, giao thông vận tải, công thương, xây dựng, tư pháp, lao động thương binh và xã hội, sự nghiệp khác). Trong đó, dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước là dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu và dịch vụ sự nghiệp công mang tính đặc thù của một số ngành, lĩnh vực thuộc danh mục do cấp có thẩm quyền ban hành, được Nhà nước bảo đảm kinh phí hoặc hỗ trợ kinh phí để thực hiện (khoản 3 Điều 3 Nghị định).
Các dịch vụ công hiện nay có thể được cung cấp bằng nhiều cách thức khác nhau như trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc bằng phương thức trực tuyến... Như vậy bên cạnh các cách thức cung cấp truyền thống, hiện nay, trong bối cảnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển số mạnh mẽ việc cung cấp cho người dân dịch vụ công bằng phương thức được đánh giá là phù hợp với xu hướng thời đại và nhu cầu từ thực tiễn. Theo khoản 5 Điều 3 Nghị định 42/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng thì dịch vụ công trực tuyến của cơ quan nhà nước là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng. Cũng theo Nghị định này, có các mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến như sau:
- Dịch vụ công trực tuyến toàn trình: là dịch vụ bảo đảm cung cấp toàn bộ thông tin về thủ tục hành chính, việc thực hiện và giải quyết thủ tục hành chính đều được thực hiện trên môi trường mạng. Việc trả kết quả được thực hiện trực tuyến hoặc qua dịch vụ bưu chính công ích.
- Dịch vụ công trực tuyến một phần: là dịch vụ công trực tuyến không bảo đảm các điều kiện của dịch vụ công trực tuyến toàn trình.

Tại Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp thì danh mục sự nghiệp công thiết yếu của ngành Tư pháp gồm:

(1) Dịch vụ hỗ trợ thông tin, thực hiện trợ giúp pháp lý (TGPL) theo Luật Trợ giúp pháp lý;
(2) Dịch vụ hỗ trợ, hướng dẫn người bị thiệt hại thực hiện thủ tục yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
Như vậy, trong ngành Tư pháp chỉ có 02 lĩnh vực sự nghiệp công trên được xác định là sự nghiệp công thiết yếu. Ở Trung ương có 02 đơn vị sự nghiệp cung cấp dịch vụ công thiết yếu (Trung tâm Thông tin, dữ liệu TGPL thuộc Cục TGPL và Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thuộc Cục Bồi thường nhà nước). Ở địa phương, mỗi tỉnh có 01 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước cung cấp dịch vụ công thiết yếu. Theo Quyết định số 1030/QĐ-TTg ngày 16/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Tư pháp đến năm 2021, định hướng đến năm 2030 thì từ nay đến năm 2030, Trung tâm Thông tin, dữ liệu TGPL thuộc Cục TGPL và Trung tâm Hỗ trợ thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thuộc Cục Bồi thường nhà nước là các đơn vị sự nghiệp công do ngân sách nhà nước bảo đảm. Theo Quyết định số 2070/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 thì từ nay đến năm 2030, mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 01 Trung tâm TGPL nhà nước để cung ứng dịch vụ TGPL  miễn phí cho người được TGPL theo Luật TGPL; các Trung tâm TGPL nhà nước được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
2. Dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, dịch vụ công thiết yếu bao gồm dịch vụ hỗ trợ thông tin TGPL và dịch vụ thực hiện TGPL theo Luật TGPL.
a) Đối với dịch vụ hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý
Dịch vụ hỗ trợ thông tin TGPL cho người được TGPL hiện nay do Trung tâm thông tin, dữ liệu trợ giúp pháp lý thuộc Cục Trợ giúp pháp lý và Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thuộc Sở Tư pháp thực hiện. Trung tâm thông tin, dữ liệu trợ giúp pháp lý là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Cục TGPL có chức năng cung cấp dịch vụ hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý, truyền thông trợ giúp pháp lý và tổ chức thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp do ngân sách bảo đảm toàn bộ thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có trụ sở, có tư cách pháp nhân để bảo đảm việc thực hiện trợ giúp pháp lý trên địa bàn tỉnh, thành phố. Thông qua hoạt động hỗ trợ thông tin về TGPL giúp người dân và người được TGPL nắm bắt được các thông tin, địa chỉ, số điện thoại của các tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL để liên hệ khi có yêu cầu TGPL.
b) Đối với dịch vụ thực hiện trợ giúp pháp lý theo Luật TGPL
Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý quy định trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Theo Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, diện được trợ giúp pháp lý gồm 14 nhóm đối tượng, phần lớn trong số này là người nghèo, người có khó khăn về tài chính không đủ khả năng sử dụng các dịch vụ pháp lý phải trả tiền, nhiều đối tượng là người yếu thế hoặc phát triển chưa đầy đủ để có thể tự bảo vệ mình trước pháp luật (trẻ em, người bị buộc tội từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, người nhiễm chất độc da cam...). Do đó, để bảo vệ về mặt pháp lý cho các đối tượng này có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống của họ, giúp giải quyết những vướng mắc, tranh chấp pháp luật, ổn định cuộc sống; đối với những người vi phạm pháp luật, phạm tội thì trợ giúp pháp lý giúp họ có được sự xét xử công bằng, tránh oan sai.
Dịch vụ thực hiện trợ giúp pháp lý do các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (bao gồm Trung tâm trợ giúp pháp lý và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý) thực hiện. Các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện trợ giúp pháp lý trình độ chuyên môn, kỹ năng hành nghề được nâng cao nhằm cung cấp dịch vụ thực hiện TGPL có chất lượng cho người được TGPL. Tính đến hết tháng 6/2023, hệ thống có 63 Trung tâm TGPL nhà nước với 1.209 người (trong đó 698 trợ giúp viên pháp lý, 377 chuyên viên pháp lý, 59 kế toán và 70 người làm việc khác); 97 Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước đặt ở cấp huyện, liên huyện. Bên cạnh đó, còn có 643 luật sư và 41 Cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện TGPL với Trung tâm TGPL nhà nước; 155 tổ chức đăng ký tham gia TGPL và 30 tổ chức ký hợp đồng thực hiện TGPL với Sở Tư pháp.
II. Thực trạng cung cấp dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số
1. Kết quả đạt được
1.1. Kết quả triển khai dịch vụ công thiết yếu thực hiện trợ giúp pháp lý:
Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý (01/01/2018 đến tháng 6/2023), các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên cả nước đã thực hiện được trên 176 nghìn vụ việc, trong đó có hơn 90 nghìn vụ tham gia tố tụng (chiếm 51,3%), số lượng vụ việc tham gia tố tụng tăng hằng năm[1]. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao. Theo tổng hợp từ địa phương từ năm 2018 – 6/2023 có khoảng 27 nghìn vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả. Nhiều vụ việc thành công, hiệu quả rõ ràng, người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân; mức bồi thường thiệt hại được tăng lên cho bị hại; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn, bị đơn dân sự... Với những kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý đạt được trong thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận công lý và công bằng trong xét xử, tạo niềm tin của người dân nói chung và người được trợ giúp pháp lý nói riêng vào tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cũng như đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc.
Về việc thực hiện dịch vụ công TGPL trực tuyến: Hiện nay, trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý có 12 thủ tục hành chính được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Trên Cổng dịch vụ công quốc gia hiện đang ghi nhận 10/12 thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý[2]. Hiện thủ tục lựa chọn, ký hợp đồng với luật sư và thủ tục lựa chọn, ký hợp đồng với tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật chưa được ghi nhận trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Theo quy định tại Thông tư 01/2023/TT-VPCP của Văn phòng Chính phủ (hiệu lực thi hành từ tháng 5/2023), dựa trên những tiêu chí quy định tại Thông tư này các cơ quan, đơn vị sẽ thực hiện rà soát và đánh giá mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Qua theo dõi cho thấy các địa phương cũng đã và đang thực hiện rà soát và công bố các thủ tục hành chính trực tuyến toàn trình và một phần. Tuy nhiên, theo nắm bắt sơ bộ, hiện nay hầu hết thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý tại một số địa phương được xác định là dịch vụ công trực tuyến một phần, chỉ một số thủ tục tại một số địa phương được xác định là dịch vụ công trực tuyến toàn phần[3]. Tuy nhiên vẫn còn có địa phương, không thủ tục hành chính nào được xác định là dịch vụ công trực tuyến....
1. Kết quả triển khai dịch vụ công thiết yếu hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý
Bên cạnh dịch vụ công thiết yếu thực hiện trợ giúp pháp lý nêu trên, theo Quyết định 2069/QĐ-TTg còn có dịch vụ hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý. Đường dây nóng trợ giúp pháp lý ở Trung ương với số điện thoại 024.6273.9631 được thiết lập từ năm 2018, đến nay đã tiếp nhận và hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý cho hàng nghìn lượt người. Việc theo dõi, tiếp nhận thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, mạng xã hội mới được tập trung thực hiện trong thời gian gần đây, tuy nhiên đã theo dõi và kịp thời chỉ đạo các Trung tâm cử người thực hiện TGPL cho người được TGPL khi họ có nhu cầu trong hàng trăm vụ việc. Ví dụ như, thông tin vụ việc được một số báo điện tử nêu có liên quan đến người thuộc diện được TGPL trong tố tụng đã được các Trung tâm chủ động tiếp cận ngay để thực hiện TGPL kịp thời, đúng quy định như vụ: “Bé 3 tuổi nghi bị cho hút ma túy: Khởi tố người tình của mẹ bé”; “Khởi tố đối tượng dâm ô nữ sinh lớp 5”; “Thầy giáo tiểu học xâm hại 5 nam sinh tại trường”;…
Ở địa phương,  tất cả các Trung tâm TGPL nhà nước tỉnh, thành phố đều có số điện thoại để tiếp nhận và hỗ trợ thông tin trợ giúp pháp lý từ người dân, cơ quan, tổ chức khác. Hiện nay danh sách tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL được các địa phương công bố công khai trên Trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp, một số địa phương cũng đã xây dựng và vận hành Trang thông tin điện tử về trợ giúp pháp lý như Bình Định, Hải Phòng, Đồng Nai, Hưng Yên[4], Kiên Giang, Tây Ninh. Hiện nay, ngoài Trang thông tin điện tử TGPL ở Trung ương và địa phương, trên các trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân các cấp đều có chỉ dẫn TGPL để người dân dễ dàng tiếp cận, sử dụng khi vào các trang thông tin điện tử này.
Cùng với các hoạt động trên, ở trung ương và địa phương, các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý đều tích cực triển khai các hoạt động truyền thông về quyền được TGPL và các cách thức tiếp cận, sử dụng dịch vụ TGPL miễn phí với nhiều hình thức đa dạng, phù hợp với nhiều đối tượng, vùng, miền: xây dựng, phát hành các tờ gấp, tài liệu về TGPL; xây dựng, phát sóng các phóng sự, chương trình về TGPL, các vụ việc TGPL trên Đài truyền hình và Đài tiếng nói Việt Nam...
2. Một số khó khăn, vướng mắc khi việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu thuộc lĩnh vực trợ giúp pháp lý trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên đã nêu, việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu trợ giúp pháp lý vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cụ thể:
- Số lượng vụ việc TGPL, nhất là số lượng vụ việc TGPL tham gia tố tụng vẫn còn thấp so với số lượng người thuộc diện được TGPL và số lượng án xét xử trong toàn quốc. Chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL còn chưa đồng đều. Việc hỗ trợ thông tin TGPL còn chưa nhiều so với số lượng người được TGPL và các phương thức hỗ trợ thông tin còn chưa đa dạng, chưa ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin để truyền tải các thông tin về TGPL đến người dân.
- Nguồn lực thực hiện TGPL còn ít so với nhu cầu được TGPL của người dân, nhất là số lượng Trợ giúp viên pháp lý ở một số địa phương còn chưa được bảo đảm, trong khi đó sự tham gia TGPL của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, người hành nghề luật còn hạn chế. Kinh phí, cơ sở vật chất dành cho công tác TGPL ở một số địa phương còn chưa được quan tâm đúng mức...
- Công tác phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan tại địa phương ở một số nơi còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức (trong phối hợp giới thiệu, giải thích quyền được TGPL, thực hiện hoạt động TGPL,....).
* Bên cạnh đó, trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay, việc cung ứng dịch vụ công thiết yếu TGPL còn những khó khăn, vướng mắc sau:
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động TGPL mới ở bước đầu, chưa tạo nhiều thuận lợi cho người sử dụng và người dân: Việc triển khai Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL (Hệ thống) còn một số hạn chế như: Hệ thống đôi lúc chưa hoạt động thông suốt, nhiều chức năng cần điều chỉnh bổ sung để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn hoạt động và quản lý công tác TGPL…; chưa có cơ sở dữ liệu TGPL, chưa được tích hợp, kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành khác để khai thác dữ liệu; chưa có Cổng thông tin điện tử, TGPL trực tuyến, ứng dụng TGPL giúp người dân thuận tiện trong quá trình tra cứu và thụ hưởng dịch vụ TGPL; việc triển khai dịch vụ công trực tuyến ở các địa phương còn ở mức độ thấp và không đồng đều ở các địa phương...
- Việc đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL thiếu sự đồng bộ ở Trung ương và địa phương, nhất là sự đầu tư của địa phương chưa tương xứng (phần mềm, cơ sở hạ tầng, đường dây nóng,…). Các thủ tục hành chính về TGPL được thực hiện ở cấp tỉnh, do đó phụ thuộc nhiều vào sự quan tâm về nguồn lực, kinh phí, cơ sở vật chất từ chính quyền địa phương. Dự án đầu tư công “Hệ thống thông tin trợ giúp pháp lý” đã được phê duyệt chủ trương đầu tư, đang trong giai đoạn thủ tục chuẩn bị triển khai nhưng chưa có nội dung trí tuệ nhân tạo vào các phần mềm, ứng dụng.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ công thiết yếu trợ giúp pháp lý cũng có khó khăn nhất định xuất phát từ người thụ hưởng dịch vụ này chủ yếu là người nghèo, người yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội chưa có kỹ năng sử dụng và kiến thức, thói quen sử dụng dịch vụ công trực tuyến hoặc sinh sống ở các khu vực miền núi vùng sâu vùng xa, mức độ sử dụng điện thoại hoặc máy tính và độ phủ sóng mạng Internet ở mức độ nhất định. Người thực hiện TGPL, người tiếp nhận, hỗ trợ thông tin vẫn còn thiếu kiến thức, kỹ năng thực hiện TGPL, tiếp nhận và hỗ trợ thông tin trong bối cảnh chuyển đổi số. Ngoài ra, với đặc thù của dịch vụ công TGPL, nhất là đối với hình thức tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng thì việc ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong quá trình cung cấp, xử lý dịch vụ công trực tuyến trên môi trường mạng sẽ không hoàn toàn diễn ra trên môi trường mạng.
II. Yêu cầu nâng cao chất lượng dịch vụ công thiết yếu trợ giúp pháp lý trong bối cảnh chuyển đổi số
1. Yêu cầu triển khai hiệu quả nội dung của các văn bản của Đảng, Nhà nước về dịch vụ công trợ giúp pháp lý
Các chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về dịch vụ công trợ giúp pháp lý: “Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý...”[5], “Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật”, “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”[6], “Bảo đảm xuyên suốt việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công, nhất là dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu cho Nhân dân, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo; tạo thuận lợi cho Nhân dân trong tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công[7]; triển khai tổ chức phiên tòa trực tuyến[8] (trong đó Trung tâm TGPL nhà nước tham gia phiên tòa trực tuyến với vai trò là một điểm cầu thành phần)[9]...
2. Yêu cầu đáp ứng kịp thời, hiệu quả nhu cầu hỗ trợ thông tin và trợ giúp pháp lý của người dân
Hiện nay, với 14 diện người theo quy định Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý khoảng 45% dân số. Cùng với đó, khi triển khai đồng bộ các giải pháp về tăng cường, đổi mới hoạt động truyền thông qua nhiều kênh thông tin; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong triển khai cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại tòa, tại cơ quan điều tra, trong giải thích, thông tin, thông báo về trợ giúp pháp lý; hoặc phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác, nhất là ở cấp cơ sở như Ủy ban nhân dân cấp xã... thì dự báo trong thời gian tới sẽ có nhiều người thuộc diện được trợ giúp pháp lý có nhu cầu được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý và nhu cầu tiếp cận, sử dụng dịch vụ trợ giúp pháp lý để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
 Theo số liệu từ Bộ Thông tin và truyền thông, tính đến tháng 6/2023, tỷ lệ người sử dụng Internet đạt 78,59% tổng dân số, số thuê bao băng rộng di động đạt 85,7 triệu thuê bao, số thuê bao sử dụng điện thoại di động thông minh ước đạt 101,12 triệu thuê bao. Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ như hiện nay, việc chia sẻ, kết nối cơ sở dữ liệu về TGPL với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành của các Bộ, ngành nhằm đáp ứng kịp thời, hiệu quả nhu cầu hỗ trợ thông tin và TGPL của người dân, nhất là việc cung cấp các dịch vụ này thông qua hình thức trực tuyến càng trở nên cần thiết[10].
 3. Yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về TGPL
- Xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số là xu thế toàn cầu và có tính tất yếu. Yêu cầu đặt ra cần phải thúc đẩy mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính một cách thực chất, gắn với ứng dụng công nghệ thông tin; thiết thực từng bước xây dựng “Chính phủ điện tử”, hướng đến “Chính phủ số”, phù hợp “nền kinh tế số”; từng bước xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia, thúc đẩy kết nối, chia sẻ thông tin, thực hiện “dịch vụ công trực tuyến” trong giải quyết thủ tục hành chính, cung ứng dịch vụ công.
Những chỉ đạo, quy định có liên quan đến trợ giúp pháp lý trong bối cảnh chuyển đối số như: mục tiêu với tầm nhìn đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia số[11], hoàn thành xây dựng Chính phủ số[12], tỷ lệ dân số trưởng thành dùng dịch vụ công trực tuyến đạt trên 50% vào năm 2025 và đạt trên 70% vào năm 2030[13], “Chủ trì, phối hợp với Bộ Công an kết nối các Cơ sở dữ liệu của ngành Tư pháp như.... Cơ sở dữ liệu trợ giúp pháp lý… với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư”[14][15].
- Bên cạnh đó, yêu cầu từ công tác quản lý trong lĩnh vực TGPL hiệu quả, chất lượng như: Tạo lập bước đầu dữ liệu về TGPL để phục vụ cho công tác tra cứu, nghiên cứu và nâng cao chất lượng hoạt động TGPL; quản lý dữ liệu về tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, viên chức, người lao động trong hệ thống TGPL; quản lý dữ liệu về việc, hồ sơ vụ việc TGPL; quản lý dữ liệu về thông tin thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, vụ việc TGPL thành công; quản lý hồ sơ điện tử vụ việc TGPL; quản lý kho cơ sở dữ liệu và phân tích thống kê, tổng hợp báo cáo; hỗ trợ cho công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, tập huấn trong lĩnh vực TGPL để thông tin được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả...
Từ những yêu cầu trên, các dịch vụ công thiết yếu trong lĩnh vực TGPL cần được sớm triển khai chuyển đổi số để quản lý toàn diện tổ chức và hoạt động TGPL; thực hiện TGPL trực tuyến; kết nối, chia sẻ thông tin dữ liệu về người nghèo, người yếu thế và đối tượng chính sách là người thuộc diện được TGPL với cơ sở dữ liệu quốc gia và cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác như cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cơ sở dữ liệu an sinh xã hội, cơ sở dữ liệu về tố tụng và cơ sở dữ liệu của các Bộ, ngành có liên quan nhằm giảm bớt thủ tục hành chính, chi phí hành chính và thời gian xác minh diện đối tượng được TGPL, xử lý các thông tin, thủ tục tố tụng liên quan, góp phần vào việc thụ lý, giải quyết vụ việc TGPL nhanh chóng, chất lượng, hiệu quả.
IV. Các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ công thiết yếu trợ giúp pháp lý trong bối cảnh chuyển đổi số
Để tiếp tục phát huy những kết quả trong việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu trợ giúp pháp lý đã đạt được, đóng góp tích cực hơn nữa vào sự phát triển của ngành Tư pháp trong bối cảnh chuyển đổi số, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:
  • Thể chế trợ giúp pháp lý tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đánh giá việc thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện và nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý.
  • Tiếp tục kiện toàn, tăng cường năng lực Trung tâm TGPL Nhà nước tương xứng với vị trí là đơn vị cung cấp sự nghiệp công trọng điểm cung cấp dịch vụ công thiết yếu.
  • Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân, xây dựng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp, có đầy đủ kiến thức và kỹ năng bảo đảm cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý có chất lượng.
- Tiếp tục tập trung thực hiện vụ việc , nhất là vụ việc tham gia tố tụng có chất lượng, hiệu quả; tăng cường quản lý chất lượng, hiệu quả vụ việc TGPL; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước.
  • Phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác TGPL trong toàn quốc, nhất là công tác phối hợp TGPL trong hoạt động tố tụng về giải thích, giới thiệu, thông tin, thông báo về nhu cầu TGPL, trực qua điện thoại kết nối với cơ quan tố tụng, liên thông chia sẻ các cơ sở dữ liệu có liên quan....
  • Tiếp tục truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết về TGPL của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ TGPL.
Đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh chuyển đổi số của ngành Tư pháp, dịch vụ hỗ trợ thông tin và trợ giúp pháp lý cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin nhằm cung cấp theo phương thức đơn giản thủ tục, thuận tiện cho người dân, ứng dụng các phương thức hiện đại kết nối với các dịch vụ, các hoạt động của Chính phủ, cơ quan, tổ chức liên quan, tăng mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân. Để đạt được những mục tiêu trên, cần triển khai các giải pháp cụ thể sau đây:
  • Trong cuộc cách mạng số này, hạ tầng cơ sở phải đi trước một bước, do đó, cần bảo đảm cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật để hiện đại hoá tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương, tham gia phiên toà trực tuyến; cải tạo cơ sở vật chất, đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin để đáp ứng nhu cầu triển khai các ứng dụng tại Trung tâm Dữ liệu điện tử Bộ Tư pháp phục vụ cho việc triển khai và vận hành các hệ thống thông tin quản lý trong lĩnh vực TGPL;
- Tiếp đến là thể chế, hạ tầng, nhân lực, tổ chức, người thực hiện TGPL, người được TGPL đóng vai trò quan trọng trong quá trình này. Do đó, cần quan tâm tạo điều kiện về nguồn lực con người và kinh phí, cơ sở vật chất cho việc ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
- Nhận thức đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số, chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức, do đó cần tăng cường tập huấn, bồi dưỡng, tăng cường năng lực kiến thức, kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ làm việc tại các cơ quan, tổ chức trợ giúp pháp lý ở Trung ương và địa phương. Cùng với đó là việc truyền thông về các nội dung, cách thức vận hành về việc cung cấp dịch vụ công thiết yếu TGPL, nhất là cách thức cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân để họ biết đến, tin tưởng và sử dụng dịch vụ một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc đơn giản hóa thủ tục trợ giúp pháp lý, tạo thuận lợi cho việc triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
- Nghiên cứu, triển khai hiệu quả các nội dung về ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực TGPL như sau:
+ Ứng dụng công nghệ thông tin triển khai giải pháp xây dựng Cổng thông tin điện tử TGPL Việt Nam là điểm truy cập duy nhất cung cấp các thông tin, ứng dụng/dịch vụ về TGPL của Cục TGPL trên môi trường mạng đối với người dùng là người dân, cơ quan, tổ chức; ứng dụng TGPL trên nền tảng di động và kết nối trên nền tảng xã hội có kết nối đến cơ sở dữ liệu về TGPL nhằm tạo thuận lợi cho người dân khi truy cập; xây dựng và vận hành hiệu quả nội dung về trợ giúp pháp lý trên trang mạng xã hội Facebook, Zalo... vừa truyền thông về TGPL vừa có thể tương tác, tiếp nhận thông tin đa kênh.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tạo lập dữ liệu bước đầu về TGPL; trong quản lý dữ liệu việc, vụ việc TGPL tập trung tại Trung ương, cho phép quản lý đầy đủ thông tin về việc, vụ việc TGPL; quản lý người đã được TGPL, quản lý, xác định đối tượng thuộc diện được TGPL; trong việc xây dựng hệ thống thông tin cho phép quản lý tổ chức thực hiện TGPL, người thực hiện TGPL, viên chức, người lao động trong hệ thống TGPL để phục vụ công tác quản lý, điều hành…
+ Tiếp tục triển khai hiệu quả các nhiệm vụ tiếp nhận và hỗ trợ thông tin qua các phương thức như đường dây nóng trợ giúp pháp lý, tiếp nhận thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng báo đài, truyền hình, mạng xã hội một cách nhanh chóng, kịp thời. hiệu quả,... ; nghiên cứu xây dựng, vận hành đường dây nóng trợ giúp pháp lý trở thành tổng đài điện thoại thông minh là nơi tiếp nhận và cung cấp thông tin pháp luật, giải đáp vướng mắc pháp luật đơn giản..../.
                                                                                                 
 

  1. Hệ thống quản lý TGPL đang lưu trữ thông tin 2.353 nhân sự, 248 tổ chức với 18.169 việc TGPL, 85.280 hồ sơ vụ việc TGPL, 1.976 tài khoản. Đến nay, việc cập nhật về tổ chức, vụ việc TGPL đã dần đi vào nề nếp.
[3] ví dụ như tại tỉnh Ninh Bình, có thủ tục cấp thẻ cộng tác viên và thủ tục cấp lại thẻ cộng tác viên được xác định là dịch vụ công trực tuyến toàn phần; tại tỉnh Bình Định có thủ tục đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý, thủ tục rút yêu cầu trợ giúp pháp lý, thủ tục thay đổi nội dung Giấy đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý được xác định là dịch vụ công trực tuyến toàn phần.
[4] Trung tâm Hưng Yên tiếp nhận cả vụ việc qua Trang thông tin của họ. Năm 2022, tiếp nhận đươc 72 vụ qua hình thức điện tử qua trang điện tử.
[5] Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
[6] Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[7] Kết luận số 62-KL/TW của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
[8] Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 của Quốc hội khóa XV
[9] Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP.
[10] tiếp nhận, xử lý hồ sơ yêu cầu TGPL và TGPL trực tuyến; cung cấp cho người dân các thông tin như thông tin về tổ chức thực hiện TGPL, thông tin về người thực hiện TGPL, thông tin về hoạt động TGPL, các văn bản pháp luật trong lĩnh vực TGPL,...; tra cứu người dân là đối tượng thuộc diện được TGPL mà không phải cung cấp  đầy đủ các loại giấy tờ chứng minh thuộc đối tượng được TGPL giúp tiết kiệm thời gian đi lại, chi phí...
[11]Quyết định 749/QĐ-TTg ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
[12] Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
[13]Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
[14] Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030
[15] Ngành tư pháp đã ban hành nhiều văn bản triển khai các nội dung trên như:  Nghị quyết số 22/NQ-BCS ngày 29/3/2022 về tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác công nghệ thông tin trong hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp giai đoạn 2022-2025; Quyết định số 682/QĐ-BTP ngày 07/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ số và bảo đảm an toàn thông tin mạng trong hoạt động của Ngành Tư pháp giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 983/QĐ-BTP ngày 10/6/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch “Chuyển đổi số Ngành Tư pháp đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”...
 
Trịnh Thị Thanh - Cục Trợ giúp pháp lý

Xem thêm »