Trợ giúp pháp lý - Dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và các đối tượng yếu thế tại Việt Nam

Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.

 
  1. Một số dịch vụ pháp lý ở Việt Nam
Về quy định của pháp luật, theo Điều 4 Luật Luật sư năm 2006; sửa đổi, bổ sung năm 2012 (sau đây gọi là Luật Luật sư 2006) thì “Dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp lý khác[1]”. Theo khoản 1 Điều 30 của Luật thì “Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật”. Luật sư có quyền và nghĩa vụ của theo quy định tại Điều 21 của Luật Luật sư 2006 và hành nghề với tư cách: (1) Là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự; (2) Là người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật. (3) Thực hiện tư vấn pháp luật. (4) Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật. (5) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của Luật Luật sư 2006 và (6) thực hiện trợ giúp pháp lý.
Theo Điều 2 Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 thì “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý quy định rõ: “Trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại” với các hình thức trợ giúp gồm: (a) Tham gia tố tụng; (b) Tư vấn pháp luật; (c) Đại diện ngoài tố tụng.
Theo quy định tại Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật thì để thực hiện tư vấn pháp luật cho thành viên, hội viên, đoàn viên của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu chuyên ngành luật và cá nhân, tổ chức khác thì Trung tâm tư vấn pháp luật được thực hiện tư vấn pháp luật; được cử luật sư làm việc theo hợp đồng cho Trung tâm tham gia tố tụng để bào chữa, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức yêu cầu tư vấn pháp luật đối với vụ việc mà Trung tâm thực hiện tư vấn pháp luật; được thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý” (Điều 7 Nghị định). Việc thực hiện tư vấn pháp luật do (1) Tư vấn viên pháp luật; (2) Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động cho Trung tâm tư vấn pháp luật; (3) Cộng tác viên tư vấn pháp luật thực hiện (Điều 18 Nghị định).
Dịch vụ pháp lý là loại hình dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện, nhằm đáp ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong xã hội... Người cung cấp dịch vụ pháp lý nhằm mục đích thu lợi và được coi như một nghề. Người được hưởng dịch vụ pháp lý được thoả mãn những yêu cầu hiểu biết hay công việc cụ thể và phải trả phí (giá) dịch vụ cho người cung cấp” (theo Từ điển Luật học).
Trong hợp tác quốc tế, theo Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, dịch vụ pháp lý được quy định khái quát “bao gồm các lĩnh vực tư vấn và đại diện đối với pháp luật nước tiếp nhận dịch vụ, pháp luật của nước sở tại, nước thứ ba, luật pháp quốc tế; dịch vụ chứng thực giấy tờ tài liệu; các dịch vụ tư vấn và thông tin khác”. Cụ thể theo WTO, dịch vụ pháp lý (legal services) bao gồm dịch vụ tư vấn, dịch vụ tranh tụng cũng như toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc thi hành công lý (như hoạt động của thẩm phán, công tố viên, v.v...). Tuy nhiên, loại hoạt động liên quan đến thi hành công lý bị gạt ra ngoài phạm vi của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (viết tắt là GATS), bởi vì ở hầu hết các nước, các hoạt động này được coi là “loại dịch vụ được cung cấp để thi hành thẩm quyền của Chính phủ” theo Điều I (3) (c) GATS (dịch vụ được cung cấp không trên cơ sở thương mại cũng như không trên cơ sở cạnh tranh với một hoặc nhiều người cung cấp).
Trong “Danh sách phân loại ngành dịch vụ” của WTO (tài liệu MTN.GNS /W/120), “(a) dịch vụ pháp lý” được liệt kê như một phân ngành của “(1) dịch vụ kinh doanh” và “(A) dịch vụ chuyên nghiệp”. Mục này tương ứng với số CPC 861 trong phân loại của Liên Hợp quốc. Theo đó, “dịch vụ pháp lý” được chia thành “dịch vụ tư vấn pháp lý và đại diện liên quan đến luật hình sự” (86111), “dịch vụ tư vấn pháp lý và đại diện trong các thủ tục tư pháp liên quan đến các lĩnh vực luật khác” (86119), “dịch vụ tư vấn pháp lý và đại diện trong các thủ tục luật định của các tòa án, hội đồng bán tư pháp, v.v. ” (86120), “dịch vụ chứng nhận tài liệu pháp lý” (86130) và “các thông tin tư vấn và pháp lý khác” (8619). Việc sửa đổi CPC của Liên Hợp quốc đã được ủy ban thống kê của Liên Hợp quốc thông qua vào tháng 2 năm 1997 khiến phân loại dịch vụ pháp lý về cơ bản không thay đổi. Tuy nhiên, nó bao gồm như một phân nhóm của dịch vụ pháp lý “Dịch vụ trọng tài và hòa giải”, trước đây là một phần của dịch vụ tư vấn quản lý.
Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật chưa có quy định riêng về thị trường dịch vụ pháp lý, chỉ có các quy định về hình thức, thẩm quyền quản lý, cung cấp/thực hiện một hoặc nhiều hoạt động là dịch vụ pháp lý, như: Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012); Luật Trọng tài thương mại năm 2010; Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017… và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nội dung các văn bản này quy định rõ về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; quy định cụ thể về tiêu chuẩn hành nghề, chứng chỉ hành nghề, hình thức hành nghề, quyền và nghĩa vụ của các chức danh; trình tự thủ tục hành nghề và về thù lao, chi phí, nội dung quản lý nhà nước theo phạm vi tương ứng.
Về hợp tác quốc tế, Việt Nam cam kết mở cửa trong Biểu cam kết dịch vụ của WTO, ASEAN (các Nghị định thư của Hiệp định dịch vụ), các Hiệp định thương mại tự do song phương với Nhật Bản, Chi Lê, Hàn Quốc, Liên minh kinh tế Á Âu, các Hiệp định trong khuôn khổ ASEAN (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc, Niu Di Lân, Hồng Công), Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ CPTPP, Hiệp định EVFTA với EU (đã ký, chưa phê chuẩn). Dịch vụ pháp lý được quy định đầu tiên trong các Biểu cam kết dịch vụ tại các Hiệp định nêu trên, phân loại là dịch vụ chuyên môn (dịch vụ mà không có điều kiện về bằng cấp chuyên môn không thể cung cấp) và Việt Nam bảo lưu quyền quy định về các điều kiện bằng cấp chuyên môn để nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được cung cấp trên cơ sở nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc. Cách diễn giải về dịch vụ pháp lý tại các cam kết quốc tế nêu trên phù hợp với giải thích về các dịch vụ liệt kê trong hệ thống phân loại sản phẩm chủ yếu của Liên hợp quốc (CPC 861), cụ thể dịch vụ pháp lý bao gồm: dịch vụ đại diện và tư vấn pháp lý trong các lĩnh vực khác nhau, dịch vụ tư vấn và đại diện trong quá trình xét xử của tòa án, dịch vụ tư vấn và đại diện trong quá trình tố tụng của các cơ quan, ủy ban tương tự tòa án, các dịch vụ thông tin và tư vấn pháp lý khác.
II. Trợ giúp pháp lý – dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý tại Việt Nam
1. Trợ giúp pháp lý – dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý
Khái niệm trợ giúp pháp lý được Luật Trợ giúp pháp lý quy định tại Điều 2, theo đó trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Hiện nay, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh, thành phố là đơn vị sự nghiệp duy nhất của Ngành Tư pháp, của Nhà nước tham gia vào hoạt động tư pháp, hoạt động tố tụng. Người thực hiện trợ giúp pháp lý là một bên của quá trình tranh tụng, có quan hệ trực tiếp đến chất lượng xét xử của Tòa án. Được xác định là một dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu đã phần nào khẳng định vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý với tư cách là một loại hình dịch vụ pháp lý trong công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Về định hướng phát triển, tại Quyết định số 2070/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ, trong quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Ngành Tư pháp, mỗi tỉnh, thành phố đều có 01 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tại các tỉnh, thành phố để cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo Luật Trợ giúp pháp lý; các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước được Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên.
Có thể nói, trợ giúp pháp lý là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu, đây là loại hình dịch vụ pháp lý đặc biệt với những đặc điểm như sau:
  • Trợ giúp pháp lý là dịch vụ pháp lý cung cấp vụ việc cụ thể liên quan trực tiếp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý.
  • Trợ giúp pháp lý là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước có chính sách để bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người thuộc diện được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
  • Người thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý gồm các nhóm người nghèo, chính sách (người dân tộc thiểu số, người có công, trẻ em...) và nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, yếu thế trong xã hội.
  • Trợ giúp pháp lý hoàn toàn miễn phí (không thu tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác dành cho người thụ hưởng chính sách).
  • Trợ giúp pháp lý thực hiện trong tất cả các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại với các hình thức trợ giúp gồm: (a) Tham gia tố tụng; (b) Tư vấn pháp luật; (c) Đại diện ngoài tố tụng.
Chính với những đặc trưng trên, trợ giúp pháp lý được coi là một loại dịch vụ pháp lý đặc biệt và là dịch vụ sự nghiệp công thiết yếu (theo Quyết định số 2069/QĐ-TTg ngày 8/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ ban hành danh mục dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu thuộc ngành Tư pháp).
2. Kết quả của việc hoàn thiện thể chế và một số quy định trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Ra đời của Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước, đến nay trải qua hai lần xây dựng, sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý với sự ra đời của Luật Trợ giúp pháp lý số 69/2006/QH11 (được thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI) và được thay thế bởi Luật Trợ giúp pháp lý số 11/2017/QH14 (được thông qua tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV với 100% đại biểu có mặt tán thành). Đây là một trong những luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được ban hành nhằm triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013.
Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được thông qua tạo khuôn khổ pháp lý cho công tác trợ giúp pháp lý phát triển bền vững theo hướng chuyên nghiệp, sử dụng hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và xã hội để kịp thời cung cấp dịch vụ pháp lý cho những người thuộc diện chính sách và những người yếu thế không có khả năng chi trả dịch vụ pháp lý, tạo bước chuyển biến căn bản trong công tác phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý.
Hiện nay, hệ thống văn bản về trợ giúp pháp lý gồm Luật, Nghị định, Quyết định, Thông tư liên tịch, Thông tư. Cùng với đó, nội dung về trợ giúp pháp lý cũng đã được quy định trong các Bộ luật, luật khác có liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam, Luật Trẻ em, Luật Người khuyết tật... Mặt khác, các quy định của Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cũng góp phần nội luật hóa ở mức độ cao các cam kết quốc tế (như Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị....).
Đặc biệt, mới đây, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp về trợ giúp pháp lý. Đồng thời, hiệu quả hoạt động TGPL trong những năm qua đã góp phần vào công tác giảm nghèo bền vững và đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam. Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong thời gian qua và đáp ứng nhu cầu tình hình thực tiễn, TGPL đã được ghi nhận trong tất cả Chương trình mục tiêu quốc gia: về giảm nghèo bền vững[2], xây dựng nông thôn mới[3] và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025[4]. Để triển khai nội dung TGPL trong các Chương trình mục tiêu quốc gia này, Bộ Tư pháp đã ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện.
Một số quy định trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam:
- Người được trợ giúp pháp lý: Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý quy định về 14 diện người được trợ giúp pháp lý cụ thể:
Người có công với cách mạng; người thuộc hộ nghèo; trẻ em; người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo; người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính (gồm 08 nhóm: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV). Với các quy định này, theo ước tính thống kê số lượng người thuộc diện được trợ giúp pháp lý trên cả nước chiếm khoảng 45% dân số.
- Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý:  Điều 10 và Điều 11 Luật Trợ giúp pháp lý quy định tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm:
Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở Tư pháp, do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng. Tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý gồm tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý và tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp. Các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý có thể là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đủ điều kiện theo quy định Luật Trợ giúp pháp lý kết hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý hoặc đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp.
- Người thực hiện trợ giúp pháp lý: Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý quy định người thực hiện trợ giúp pháp lý bao gồm:
 Trợ giúp viên pháp lý (viên chức thực hiện trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp thuộc số lượng người làm việc của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước); Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; Cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
- Hình thức, lĩnh vực trợ giúp pháp lý: Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý quy định trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện ngoài tố tụng như đã đề cập ở trên.
  • Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý:
 Luật Trợ giúp pháp lý đã quy định trách nhiệm của Nhà nước (Điều 4), trách nhiệm của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 13, trách nhiệm của người thực hiện trợ giúp pháp lý (Điều 18), trách nhiệm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý của Chính phủ, của Bộ Tư pháp, Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh (Điều 40), trách nhiệm của các cơ quan có liên quan đến trợ giúp pháp lý trong tố tụng (Điều 41) và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan (Điều 42), trách nhiệm của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (Điều 43) và tổ chức chủ quan của tổ chức tư vấn pháp luật (Điều 44). Bên cạnh đó, tại các Thông tư, Thông tư liên tịch có liên quan khác cũng có quy định một số trách nhiệm của Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã,... trong hoạt động trợ giúp pháp lý. 
3. Một số kinh nghiệm nước ngoài về hoạt động trợ giúp pháp lý
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới cho rằng tiếp cận công lý là một quyền cơ bản của con người liên quan đến pháp luật hình sự. Con người không thể bị cản trở tiếp cận với công lý, đặc biệt khi quyền tự do hoặc cuộc sống của họ bị đe dọa do thiếu nguồn lực để thuê luật sư bảo vệ. Các nghiên cứu nước ngoài cho rằng, trợ giúp pháp lý trên thế giới đã hình thành và có lịch sự phát triển hơn 500 năm và trong tương lai, trợ giúp pháp lý vẫn tiếp tục cần thiết, kể cả đối với các nước rất phát triển. Nó cần thiết đối với việc củng cố luật pháp, với việc xây dựng nhà nước pháp quyền và có tầm quan trọng như một bộ phận không thể tách rời của việc thực thi công lý và cũng cần thiết như một bộ phận không thể thiếu trong quá trình xét xử. Một số nước Hiến pháp quy định quyền được TGPL trong tư pháp hình sự là một trong các quyền cơ bản của công dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho những người không có khả năng thuê luật sư, đặc biệt trong vụ án hình sự, ví dụ như Thái Lan, Bỉ, Nam Phi, Ấn Độ, Nga, Dominica, Tây Ban Nha...[5].
Đến nay, trợ giúp pháp lý đã phát triển ở các quốc gia với các mức độ, phương thức khác nhau, đa dạng về cách thức vận hành tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố ở quốc gia đó như điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ chính trị, hệ thống pháp luật. Xu hướng phát triển chung của các nước trên thế giới đều mong muốn cung cấp cho người được trợ giúp pháp lý dịch vụ có chất lượng một cách kịp thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, góp phần bảo đảm quyền con người trong tiếp cận công lý.
Trên thế giới hiện nay phổ biến có ba mô hình tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý (i) mô hình trợ giúp pháp lý do Nhà nước thực hiện hoàn toàn; (ii) mô hình trợ giúp pháp lý do luật sư tư và các tổ chức xã hội trực tiếp thực hiện; (iii) mô hình Nhà nước thành lập hệ thống trợ giúp pháp lý của Nhà nước đồng thời huy động các lực lượng khác trong xã hội tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý. Hiện nay, rất nhiều nước áp dụng mô hình hỗn hợp này như Nhật Bản, Ailen, bang Victoria, Queensland (Úc), Mỹ, Nam Phi, Hàn Quốc, bang Ontario (Canada), Malaysia, Israel,…).
Về cách thức tổ chức hệ thống trợ giúp pháp lý: Đa số các nước có tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước thì tổ chức trợ giúp pháp lý được thiết kế theo ngành dọc, có cơ quan quản lý tại Trung ương/khu vực và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý ở địa phương (như Ailen, Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippin, Achentina...).
Về người được trợ giúp pháp lý: Do khác nhau về điều kiện kinh tế - xã hội nên Luật Trợ giúp pháp lý các nước sẽ quy định khác nhau về diện người, điều kiện, tiêu chuẩn để được thụ hưởng dịch vụ trợ giúp pháp lý. Có thể khái quát các nhóm đối tượng cơ bản sau thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo pháp luật trợ giúp pháp lý của các nước: i) là những người nghèo, không có hoặc không đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý; ii) là những người yếu thế không có khả năng tự bảo vệ cần được sự trợ giúp về pháp luật như: người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người khuyết tật, người chưa thành niên.... Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý của nhiều nước, để được trợ giúp pháp lý thì người đó phải chứng minh mình thuộc diện được trợ giúp. Đa số các nước trên thế giới chỉ miễn phí cho một số đối tượng nhất định trong một số loại vụ việc nhất định, chủ yếu là đối với đối tượng bị buộc tội trong vụ việc hình sự và sẽ thu phí, giảm phí đối với các nhóm người được trợ giúp pháp lý còn lại (Hungary, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan,...)[6].
Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hoạt động trợ giúp pháp lý: Luật Trợ giúp pháp lý một số nước quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan quản lý trợ giúp pháp lý. Ví dụ, Luật Trợ giúp pháp lý Modova năm 2007 quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý hệ thống trợ giúp pháp lý do Nhà nước bảo đảm và quy định chi tiết trách nhiệm của từng cơ quan (Bộ Tư pháp; Liên đoàn Luật sư); Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý Nhật Bản năm 2004 quy định Chính phủ có trách nhiệm thành lập hệ thống trợ giúp pháp lý và bảo đảm hệ thống hoạt động có hiệu quả...
Về ứng dụng công nghệ thông tin trong trợ giúp pháp lý: Để nâng cao hiệu quả quản lý tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, nhiều nước đã ứng dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý nhân sự, tiếp nhận, xử lý vụ việc, tư vấn trực tuyến, hỗ trợ người được trợ giúp pháp lý nộp đơn trực tiếp, tự giải quyết những vướng mắc đơn giản,... (như Ailen, Mỹ, Hà Lan,...).
*) Trung Quốc là một nước có pháp luật về trợ giúp pháp lý có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. Nghiên cứu về trợ giúp pháp lý ở Trung Quốc cho thấy:
Năm 1994, Chính phủ Trung Quốc đã chỉ đạo việc nghiên cứu và thành lập hệ thống trợ giúp pháp lý của Trung Quốc. Sau đó, những nỗ lực thiết lập các cơ quan trợ giúp pháp lý trên cả nước nhằm mục đích thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo đã được bắt đầu vào năm 1996. Ngày 01/9/2003, Quy tắc trợ giúp pháp lý đã được Quốc vụ việc Trung Quốc ban hành, quy định trợ giúp pháp lý thuộc về trách nhiệm của Chính phủ và thiết lập cơ cấu tổ chức và các nguyên tắc chung của hệ thống trợ giúp pháp lý ở Trung Quốc. Sau 18 năm thực hiện Quy tắc trợ giúp pháp lý, năm 2021 Luật Trợ giúp pháp lý Trung Quốc được ban hành với 07 Chương, 71 Điều và có hiệu lực thi hành từ tháng 01 năm 2022. Luật Trợ giúp pháp lý Trung Quốc năm 2021 quy định như sau:
- Về tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, bao gồm các tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước do cơ quan tư pháp cấp huyện trở lên thành lập và các Công ty luật, Trung tâm dịch vụ pháp lý ở cơ sở được cơ quan hành chính tư pháp lựa chọn thông qua hình thức đấu thầu cung ứng dịch vụ công.
- Về hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý, bao gồm: Tư vấn pháp luật; chuẩn bị hồ sơ pháp lý; bào chữa và đại diện; đại diện trong tố tụng và ngoài tố tụng đối với các vụ án dân sự, vụ án hành chính và vụ việc bồi thường nhà nước; thực hiện bào chữa đối với án chỉ định; đại diện trong hoà giải và trọng tài về tranh chấp lao động và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
- Về người thực hiện trợ giúp pháp lý, bao gồm: Nhân viên có chứng chỉ luật sư hoặc chứng chỉ chuyên môn pháp lý làm việc tại tổ chức trợ giúp pháp lý; Luật sư làm nhiệm vụ trực tại Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Trại tạm giam và những nơi khác để trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo phạm tội mà không có người bào chữa; Luật sư và nhân viên dịch vụ pháp lý làm việc tại các Công ty luật và Trung tâm dịch vụ pháp lý cấp cơ sở; người làm công tác giáo dục, nghiên cứu pháp luật, cơ quan nghiên cứu khoa học được làm tình nguyện viên trợ giúp pháp lý, thực hiện trợ giúp pháp lý cho các đối tượng theo hướng dẫn của cơ quan tư pháp và các tình nguyện viện khác đủ điều kiện thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật.
- Về người được trợ giúp pháp lý, bao gồm đối tượng phải chứng minh có khó khăn về tài chính và các đối tượng không phải chứng minh có khó khăn về tài chính.
+ Đối tượng phải chứng minh có khó khăn về tài chính: Những tiêu chuẩn, điều kiện để xác định có khó khăn tài chính do chính quyền nhân dân cấp tỉnh, khu tự trị hoặc thành phố trực thuộc trung ương quy định căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế và nhu cầu trợ giúp pháp lý của khu vực hành chính và được điều chỉnh, bổ sung một cách linh hoạt.
  • Trong lĩnh vực tố tụng hình sự: Người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự do khó khăn về tài chính hoặc vì lý do khác mà không có người bào chữa thì người nhà của họ có thể đến các tổ chức trợ giúp pháp lý để yêu cầu trợ giúp pháp lý; người bị hại, nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, nếu không có khả năng thuê dịch vụ pháp lý do khó khăn về tài chính hoặc các lý do khác thì họ hoặc người đại diện hợp pháp của họ có thể nộp đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý đến các tổ chức trợ giúp pháp lý.
  • Trong các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự: Trường hợp đương sự không có người đại diện do khó khăn về tài chính, có thể nộp đơn đến tổ chức trợ giúp pháp lý để được trợ giúp pháp lý trong các trường hợp sau: (1) Yêu cầu nhà nước bồi thường theo quy định của pháp luật; (2) Yêu cầu trợ cấp bảo hiểm xã hội hoặc trợ cấp xã hội; (3) Yêu cầu hưởng trợ cấp mai táng; (4) Yêu cầu thanh toán tiền cấp dưỡng, hỗ trợ; (5) Yêu cầu chấm dứt quan hệ lao động hoặc trả công lao động; (6) Yêu cầu xác định công dân bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự; (7) Yêu cầu bồi thường thiệt hại về thể chất do tai nạn lao động, tai nạn giao thông, ngộ độc do thực phẩm hoặc thuốc hoặc tai nạn trong y khoa; (8) Yêu cầu bồi thường do ô nhiễm và hủy hoại hệ sinh thái; (9) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
+ Đối tượng không cần phải chứng minh có khó khăn về tài chính:
  • Trong tố tụng hình sự: Người bị tình nghi, bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thuộc một trong các đối tượng sau đây mà không có người bào chữa thì Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan công an thông báo cho tổ chức trợ giúp pháp lý cử luật sư tham gia bào chữa: (1) Người chưa thành niên; (2) Người khuyết tật về thị giác, thính giác hoặc khả năng nói; (3) Người thành niên không đủ năng lực hành vi; (4) Người bị buộc tội mà tội đó có khung hình phạt cao nhất là chung thân hoặc tử hình; (5) Bị cáo bị đề nghị áp dụng án tử hình có yêu cầu trợ giúp pháp lý; (6) Bị cáo vắng mặt trong phiên toà hình sự; (7) Những người khác theo quy định của pháp luật. Nếu các đối tượng trên, ở giai đoạn xét xử mà không có người bào chữa thì Tòa án nhân dân thông báo cho tổ chức trợ giúp pháp lý cử luật sư bào chữa cho họ.
  • Ngoài tố tụng hình sự, bao gồm: Người thân thích của anh hùng, liệt sĩ đề nghị bảo vệ những quyền nhân thân của anh hùng, liệt sỹ; người có yêu cầu nhà nước bồi thường vì oan sai trong tố tụng...
- Về trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan nhà nước: Luật Trợ giúp pháp lý quy định cụ thể về trách nhiệm của Nhà nước và các cơ quan nhà nước (Bộ Tư pháp của Quốc vụ viện; chính quyền nhân dân cấp huyện trở lên; cơ quan tư pháp; cơ quan tiến hành tố tụng).
II. Thực trạng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí tại Việt Nam
Triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật trong thời gian qua, thực trạng dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí như sau:
  1. Về tổ chức cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí tại Việt Nam
Hệ thống tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý được kiện toàn và tăng cường năng lực; người thực hiện trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp. Hiện nay ở trung ương, có Cục Trợ giúp pháp lý là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp có chức năng giúp Bộ Tư pháp quản lý nhà nước và quản lý chuyên ngành về trợ giúp pháp lý. Ở địa phương có Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại địa phương. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Tư pháp, có tư cách pháp nhân, có con dấu, trụ sở và tài khoản riêng.
Đến hết năm 2022, cả nước có 63 Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, 99 Chi nhánh thuộc các Trung tâm trợ giúp pháp lý, với tổng số 1234 viên chức, người lao động, trong đó có 688 trợ giúp viên pháp lý; có 27 tổ chức ký hợp đồng; 169 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý; 38 Cộng tác viên ký hợp đồng, 607 Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý.
Có thể nói, mặc dù số lượng người làm việc tại các Trung tâm trên toàn quốc không tăng nhưng chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý tăng lên đáng kể. Tỷ lệ số lượng trợ giúp viên pháp lý trên tổng số người làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý từng bước được nâng lên, số lượng người làm chuyên môn (Trợ giúp viên pháp lý và chuyên viên pháp lý) và tiêu chuẩn Trợ giúp viên pháp lý nâng cao hơn so với thời điểm triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006.
Quy định trợ giúp viên pháp lý có tiêu chuẩn, điều kiện tương đồng với luật sư, đây là chức danh viên chức có 03 hạng (năm 2022 mới được bổ sung thêm chức danh trợ giúp viên pháp lý hạng I – Đây là hạng cao nhất của chức danh nghề nghiệp viên chức trợ giúp viên pháp lý và lần đầu tiên trong các chức danh viên chức sự nghiệp thuộc ngành tư pháp quản lý có chức danh nghề nghiệp viên chức hạng I). Hiện nay, các Trợ giúp viên pháp lý đều đã đáp ứng các yêu cầu của đào tạo nghề, hạng chức danh (phải trải qua lớp đào tạo nghề, tập sự và đạt kết quả tại kỳ kiểm tra hết tập sự do Bộ Tư pháp tổ chức mới được bổ nhiệm chức danh và hành nghề).
Đến nay, trợ giúp viên pháp lý đã trở thành đội ngũ nòng cốt trong cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý và số lượng vụ việc tham gia tố tụng của Trợ giúp viên pháp lý tăng hằng năm. So với cùng kỳ năm 2021, số lượng vụ việc tham gia tố tụng do Trợ giúp viên pháp lý kết thúc năm 2022 là 17.266 vụ, tăng 2.404 vụ; có 59/63 Trung tâm có 100% Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành chỉ tiêu, trong đó có 14 Trung tâm có 100% Trợ giúp viên pháp lý hoàn thành chỉ tiêu tốt; số lượng trợ giúp viên pháp lý đạt chỉ tiêu ở mức độ tốt (mức cao nhất) là 402 người, tăng 104 người.
Để nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý trên toàn quốc nhằm đáp ứng yêu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân, hàng năm, Bộ Tư pháp thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý, trong đó, tập trung vào các kỹ năng tham gia tố tụng hình sự, dân sự, hành chính và các kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho các nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương. Ở địa phương, Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng thực hiện trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý của địa phương. 100% trợ giúp viên pháp lý hoàn thành nghĩa vụ tập huấn nâng cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc theo quy định.
 Về việc huy động các lực lượng xã hội tham gia trợ giúp pháp lý: Trên cả nước có 40 tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý (30 tổ chức hành nghề luật sư và 10 tổ chức tư vấn pháp luật) và 180 tổ chức đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp (146 tổ chức hành nghề luật sư và 34 tổ chức tư vấn pháp luật), có 663 luật sư và 38 cộng tác viên ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước[7]. Các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện trợ giúp pháp lý phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định nhằm bảo đảm chất lượng cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý cho người dân. Các vụ việc trợ giúp pháp lý do các tổ chức, cá nhân tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên. 
Có thể nói rằng, để triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, các địa phương đã quan tâm sắp xếp, kiện toàn bộ máy, đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, ở một số nơi, số lượng người làm việc tại một số Trung tâm vẫn còn chưa bảo đảm, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số số lượng trợ giúp viên pháp lý chưa tương xứng với nhu cầu TGPL trên địa bàn tỉnh.
  1.  Về dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí tại Việt Nam
Thời gian qua, từ khi đổi mới công tác trợ giúp pháp lý, đặc biệt là từ khi triển khai Luật TGPL năm 2017, các địa phương đã tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm của công tác trợ giúp pháp lý là thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng.
Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 đến nay (ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2022), các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trên cả nước đã thực hiện được trên 160 nghìn vụ việc, trong đó có hơn 80 nghìn vụ tham gia tố tụng. Từ khi triển khai Luật Trợ giúp pháp lý đến nay, số lượng vụ việc tham gia tố tụng ngày càng tăng và năm 2022 là năm có số lượng vụ việc tham gia tố tụng thực hiện cao nhất từ trước tới nay. Cụ thể: năm 2018 là 11.860 vụ việc, năm 2019 là 13.428 vụ việc, năm 2020 là 16.168 vụ việc, năm 2021 là 20.868 vụ việc, năm 2022 là 21.276 vụ việc.
Số liệu trên cho thấy, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực đã định hướng công tác trợ giúp pháp lý, nhất là các trợ giúp viên pháp lý tập trung vào nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện trợ giúp pháp lý. Thời gian gần đây, nhiều vụ việc nổi cộm được báo chí đưa tin, dư luận xã hội quan tâm đã được Cục Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp theo dõi, chỉ đạo và các Trung tâm trợ giúp pháp lý chủ động, kịp thời tiếp cận nhu cầu trợ giúp pháp lý để cử người thực hiện trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích kịp thời, hiệu quả cho người được trợ giúp pháp lý.
Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý ngày càng được nâng cao. Theo định hướng của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 và sự chỉ đạo, điều hành kịp thời của cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực hiện trợ giúp pháp lý, chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã có chuyển biến rõ nét. Chất lượng, hiệu quả vụ việc được xác định căn cứ vào các tiêu chí cụ thể. Hầu hết các vụ việc trợ giúp pháp lý được thẩm định, đánh giá đều đạt chất lượng trở lên.
Đặc biệt, có nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như: Người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân... Theo tổng hợp từ địa phương từ năm 2018 – 2022 có hơn 23 nghìn vụ việc tham gia tố tụng thành công, hiệu quả. Riêng năm 2022 có gần 7,5 nghìn vụ việc tham gia tố tụng thành công, chiếm 37% tổng số vụ việc tham gia tố tụng kết thúc.
Kết quả thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý thời gian qua đã góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng trong tiếp cận công lý và công bằng trong xét xử, tạo niềm tin của người dân nói chung và người được trợ giúp pháp lý nói riêng vào tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cũng như đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý của Nhà nước trên toàn quốc. Công tác quản lý, thẩm định và đánh giá chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý được quan tâm, chú trọng nhằm kiểm soát chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý đã cung cấp cho người dân. Về cơ bản, các vụ việc được thẩm định, đánh giá chất lượng đều đạt chất lượng trở lên, người dân hài lòng với chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý được cung cấp.
  1. Một số nội dung khác
- Trong thời gian gần đây việc phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng có nhiều chuyển biến tích cực, đột phá. Quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước ngày càng được củng cố, giúp người thuộc diện trợ giúp pháp lý sớm tiếp cận với thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý và thụ hưởng khi có nhu cầu. Đa số các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng việc giải thích, thông tin, thông báo và tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện vụ việc theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản pháp luật có liên quan.
Ngày 19/5/2022, Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký ban hành Chương trình phối hợp người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án (Chương trình phối hợp 1603/CTPH-BTP-TANDTC). Lần đầu tiên có cơ chế người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại Tòa án nhân dân trong phạm vi toàn quốc, qua đó sẽ giúp bảo đảm tiếp cận và thụ hưởng trợ giúp pháp lý kịp thời trong tố tụng cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thuộc diện được trợ giúp pháp lý, hạn chế việc người dân thuộc diện trợ giúp pháp lý bị bỏ lỡ cơ hội được nhận dịch vụ pháp lý miễn phí. Nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ký kết Chương trình/Kế hoạch phối hợp giữa Sở Tư pháp với Tòa án nhân dân tỉnh và các địa phương đều đã triển khai thực hiện việc người thực hiện trợ giúp pháp lý trực tại trụ sở Tòa án hoặc Tòa án thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước các thông tin về người thuộc diện trợ giúp pháp lý cho người thực hiện trợ giúp pháp lý qua điện thoại. Cùng với đó, để triển khai nội dung điểm cầu thành phần trong phiên tòa trực tuyến theo Thông tư liên tịch số 05/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành tổ chức phiên tòa trực tuyến, trong năm 2022 một số địa phương đã lập dự toán kinh phí, bố trí cơ sở vật chất, trang thiết bị và tham gia vào phiên tòa trực tuyến.
Bên cạnh mối quan hệ phối hợp về trợ giúp pháp lý trong tố tụng, các Sở Tư pháp/Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước còn tích cực phối hợp với Đoàn luật sư ở địa phương trong việc huy động luật sư có kinh nghiệm, uy tín tham gia trợ giúp pháp lý và các cơ quan, tổ chức như Hội Nông dân, Hội Luật gia, Hội Phụ nữ, Mặt trận tổ quốc Việt nam... trong việc truyền thông về trợ giúp pháp lý và giới thiệu hội viên có nhu cầu trợ giúp pháp lý đến Trung tâm. Để thực hiện quy định tại Thông tư số 03/2021/TT-BTP, nhiều địa phương (Sở Tư pháp/Trung tâm trợ giúp pháp lý) đã ban hành công văn, văn bản đến UBND cấp xã đề nghị phối hợp triển khai thực hiện trách nhiệm thông tin, giới thiệu về trợ giúp pháp lý. Một số địa phương đã triển khai có kết quả nội dung này.
Mặt khác, vẫn còn một số nơi việc phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan chưa thực sự được quan tâm đúng mức nên hoạt động TGPL chưa phát huy được hiệu quả (trong phối hợp giới thiệu, giải thích quyền được TGPL, trong thực hiện hoạt động TGPL, trong huy động các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TGPL, trong bố trí kinh phí và cơ sở vật chất cho hoạt động TGPL....). Một số nơi chưa triển khai hoặc triển khai chưa hiệu quả việc phối hợp người thực hiện TGPL trực tại Tòa; một số UBND cấp xã chưa triển khai hiệu quả việc giới thiệu người được TGPL có nhu cầu đến Trung tâm TGPL nhà nước; số lượng các cá nhân, tổ chức tham gia TGPL còn khiêm tốn.
- Hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý không ngừng được đổi mới theo các phương thức khác nhau:
Ở Trung ương: Nhằm tích cực lan tỏa hoạt động cũng như kết quả của công tác TGPL, Cục TGPL, Bộ Tư pháp chủ động phối hợp để xây dựng, phát sóng các phóng sự về công tác TGPL theo chuyên đề, các phóng sự về vụ việc TGPL thành công, các thông điệp, tiểu phẩm, chương trình về TGPL trên các kênh truyền hình Trung ương, có nhiều người theo dõi như Đài Truyền hình Việt Nam, Truyền hình Quốc hội, Đài tiếng nói Việt Nam…; tổ chức các đợt truyền thông về TGPL điểm, luân phiên kết nối cộng đồng nâng cao kiến thức TGPL cho người dân và các trưởng thôn, bản, cán bộ chi hội đoàn thể, người có uy tín trong cộng đồng ở một số địa phương; thường xuyên duy trì Trang thông tin điện tử TGPL, chú trọng các bài nghiên cứu, trao đổi chuyên môn, nghiệp vụ, các tin bài theo những ngày lễ, kỷ niệm; cập nhật danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp...
Ở địa phương: Nhằm thúc đẩy công tác truyền thông TGPL đến với người dân, các Trung tâm TGPL nhà nước phối hợp với các cơ quan, đoàn thể (Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh...) để giới thiệu thông tin về TGPL cho thành viên, hội viên của các tổ chức hoặc phối hợp với các cơ quan báo chí để đăng tải các câu chuyện pháp luật TGPL, nghiên cứu, trao đổi nghiệp vụ về TGPL, hoạt động TGPL, giải đáp các vướng mắc về pháp luật mà người dân thường gặp; một số Trung tâm TGPL nhà nước xây dựng Trang thông tin điện tử riêng về TGPL đăng tải các thông tin về tổ chức và hoạt động của Trung tâm; một số địa phương xây dựng chuyên mục “Câu chuyện TGPL” trên báo địa phương; xây dựng các phóng sự TGPL phát trên đài truyền hình hoặc báo địa phương; tổ chức các đợt truyền thông về TGPL ở cơ sở để trực tiếp truyền thông, hướng dẫn thông tin về TGPL cho người dân; xây dựng các bảng tin, hộp tin, tờ rơi, tờ gấp về TGPL; tổ chức các đợt TGPL cao điểm để mừng các ngày lễ, kỷ niệm hàng năm; cập nhật danh sách người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL trên Trang thông tin điện tử Sở Tư pháp...
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động trợ giúp pháp lý, thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL:
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động TGPL được tăng cường ở cả Trung ương và địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân trong việc tiếp cận và sử dụng TGPL khi có nhu cầu thông qua việc đăng tải các thông tin, quy định về TGPL, danh sách người thực hiện và tổ chức thực hiện TGPL trên Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Trang thông tin điện tử TGPL Việt Nam và các trang thông tin điện tử địa phương; triển khai có hiệu quả việc sử dụng Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL. Hiện nay, ngoài Trang thông tin điện tử TGPL ở Trung ương và địa phương, trên các trang thông tin điện tử của Tòa án nhân dân các cấp đều có chỉ dẫn TGPL để người dân dễ dàng tiếp cận, sử dụng khi vào các trang thông tin điện tử này. Bên cạnh đó, Hệ thống quản lý tổ chức và hoạt động TGPL được xây dựng, vận hành nhằm giúp các Trung tâm TGPL nhà nước, các tổ chức tham gia TGPL cập nhật, số hóa hồ sơ vụ việc cũng như thực hiện việc thống kê, báo cáo về TGPL theo quy định. Việc triển khai Hệ thống này đã dần đi vào nề nếp, việc cập nhật về tổ chức, biên chế, vụ việc TGPL được đẩy mạnh và đã đạt được kết quả nhất định.
Đồng thời, trong bối cảnh Nhà nước đang tập trung đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, trong thời gian qua lĩnh vực TGPL cũng đã thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là người được TGPL. Với số lượng thủ tục hành chính không nhiều và được phân cấp hoàn toàn về địa phương thực hiện (ở cấp tỉnh) nên thủ tục hành chính trong lĩnh vực TGPL về cơ bản đã đáp ứng mục đích, yêu cầu trong việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
III. Định hướng phát triển dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí tại Việt Nam
Ở nhiều nước trên thế giới đã xác định trợ giúp pháp lý là một hoạt động cần thiết, đồng hành cũng quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Xu hướng phát triển của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam là tiếp tục xác định hoạt động này là trách nhiệm của Nhà nước cho người nghèo, người có công với cách mạng, các đối tượng yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội. Bởi vì, dù xã hội phát triển đến đâu vẫn tồn tại những người nghèo, người yếu thế, người dễ tổn thương trong xã hội. Và khi vẫn còn những người cần đến sự trợ giúp như vậy thì trợ giúp pháp lý vẫn tồn tại với tư cách là trách nhiệm, là công cụ của Nhà trước trong bảo đảm quyền con người tại Việt Nam.
Trước yêu cầu triển khai hiệu quả nội dung của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “nâng cao chất lượng dịch vụ công”, đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[8] và thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được giao tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”:“Xây dựng mạng lưới, nâng cao năng lực của hệ thống dịch vụ pháp lý, trợ giúp pháp lý và hỗ trợ pháp lý để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận pháp luật”; “Nâng cao vai trò, tính chuyên nghiệp và chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp; hiện đại hóa, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ thống trợ giúp pháp lý; mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý phù hợp với điều kiện của đất nước”, trong thời gian tới cần tiếp tục lấy người được trợ giúp pháp lý làm trung tâm, bảo đảm giúp người dân tiếp cận hoạt động trợ giúp pháp lý kịp thời, thuận lợi, có chất lượng và ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại. Khẳng định vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong việc trở thành một trụ cột trong việc bảo đảm quyền tiếp cận công lý cho một bộ phận lớn người dân trong xã hội (khoảng 45% dân số), qua đó, tạo sự công bằng, bình đẳng trước pháp luật của người dân và góp phần vào công cuộc cải cách tư pháp nói riêng và trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói chung. Phấn đấu trở thành nước có hoạt động trợ giúp pháp lý tiên tiến trên bản đồ trợ giúp pháp lý khu vực và thế giới.
 1. Triển khai thực hiện nội dung về trợ giúp pháp lý tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII về việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
2. Tiếp tục thực hiện hiệu quả Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật; Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025 phù hợp với Luật TGPL; tiếp tục hoàn thiện thể chế công tác TGPL phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về TGPL; bám sát tình hình, thực tiễn công tác và hoạt động TGPL tại các địa phương, kịp thời dự báo các khó khăn, vướng mắc phát sinh để tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ. Nghiên cứu, xây dựng chính sách TGPL đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo theo Nghị quyết số 160/NQ-CP ngày 22/12/2021 của Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo bền vững đến năm 2030; nghiên cứu, hoàn thiện nội dung Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Bộ Công an về người thực hiện TGPL trực trong điều tra hình sự...
3. Tiếp tục kiện toàn, tăng cường năng lực Trung tâm TGPL Nhà nước tương xứng với vị trí là đơn vị cung cấp sự nghiệp công thiết yếu, kiện toàn các Chi nhánh đã có (bảo đảm về nhân sự, điều kiện làm việc, cơ sở  vật chất), thành lập Chi nhánh mới khi đáp ứng yêu cầu của Luật TGPL và đáp ứng nhu cầu thực tế tại địa phương. Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL, nhất là Trợ giúp viên pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về TGPL của người dân thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn…
4. Xác định rõ hoạt động trợ giúp pháp lý, tổ chức trợ giúp pháp lý nằm trong nhóm hoạt động, cơ quan, tổ chức thực hiện hoạt động tố tụng tư pháp (Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định trong chế định tố tụng tư pháp “tranh tụng” là “đột phá” mà Trợ giúp viên pháp lý với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong tố tụng, là một trong những bên chính trong tranh tụng. Nghị quyết số 27-NQ/TW cũng đề cập việc “nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, nhất là trong hoạt động tố tụng tư pháp”, cho thấy rằng trợ giúp pháp lý thuộc hoạt động tố tụng tư pháp, không phải là hoạt động mang tính hỗ trợ, bổ trợ cho hoạt động tư pháp; phân biệt với hoạt động bổ trợ tư pháp và hành chính tư pháp. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng đã tách biệt 03 hoạt động này[9]. Mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị định 98/2022/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạ và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp cũng đã xác định trợ giúp pháp lý, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp là 03 chức năng riêng biệt.
5. Triển khai hiệu quả nội dung trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi... nhằm tiếp tục khẳng định vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý với tư cách là một bộ phận cấu thành trong tổng thể các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, an sinh xã hội gắn với bảo đảm công bằng xã hội, phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
6. Tăng cường số lượng và nâng cao năng lực cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về trợ giúp pháp lý của người dân thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu từng lĩnh vực hoặc các hình thức chia sẻ kinh nghiệm… có kế hoạch đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng cụ thể để tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, nhất là đội ngũ trợ giúp viên pháp lý nhằm đáp ứng nhu cầu trợ giúp pháp lý ngày càng cao của người dân.
7.  Tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, nhất là vụ việc tham gia tố tụng. Có giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả vụ việc trợ giúp pháp lý; tăng cường quản lý chất lượng, hiệu quả dịch vụ trợ giúp pháp lý. Nghiên cứu, triển khai việc quản lý chất lượng dịch vụ trợ giúp pháp lý, đặc biệt là trong phiên tòa trực tuyến.
8. Tăng cường sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương về giải thích, giới thiệu, thông tin, thông báo về nhu cầu trợ giúp pháp lý, về thực hiện trợ giúp pháp lý.... Nhất là phối hợp, kết nối với Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác về việc áp dụng công nghệ điện tử, chuyển đổi số đối với việc thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng. Triển khai hiệu quả cơ chế người thực hiện TGPL trực ở trụ sở hoặc trực qua điện thoại tại tòa án nhân dân, cơ quan điều tra, nhà tạm giam, tạm giữ... giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được tiếp cận sớm với trợ giúp pháp lý, đặc biệt là ở những địa phương có tỷ lệ người thuộc diện trợ giúp pháp lý cao, từ đó góp phần bảo đảm đáp ứng được nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân một cách nhanh chóng và kịp thời nhất. Đồng thời, tiếp tục tăng cường sự kết nối với chính quyền cơ sở trong việc giới thiệu nhu cầu trợ giúp pháp lý và trong hoạt động truyền thông về trợ giúp pháp lý.
9. Có phương thức truyền thông hiệu quả, phù hợp với từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền; nâng cao kiến thức, hiểu biết về trợ giúp pháp lý của đội ngũ cán bộ cơ sở, người có uy tín trong cộng đồng trong việc hỗ trợ người dân tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý. Khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý, đa dạng hóa việc cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý, nhất là đội ngũ luật sư, tư vấn viên pháp luật có kinh nghiệm.
10. Vận hành, khai thác, sử dụng hiệu quả cơ sở dữ liệu về trợ giúp pháp lý, Cổng thông tin điện tử trợ giúp pháp lý, nghiên cứu, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin theo hướng chuyển đổi số, chia sẻ, kết nối, tích hợp dữ liệu người thuộc diện được trợ giúp pháp lý với cơ sở dữ liệu quốc gia và các bộ, ngành có liên quan nhằm nâng cao hiệu quả quản lý điều hành, hỗ trợ người dân yêu cầu trợ giúp pháp lý trực tuyến, đơn giản hóa và giảm tải thủ tục hành chính trong hoạt động trợ giúp pháp lý, tiết kiệm chi phí đi lại, chứng minh thuộc diện đối tượng... Hiện đại hóa trong hệ thống trợ giúp pháp lý, trong đó chú trọng đối với điều kiện làm việc và tổ chức công việc.
11. Tích cực hợp tác quốc tế về trợ giúp pháp lý, triển khai hiệu quả các dự án, chương trình với các đối tác quốc tế, tham gia các diễn đàn quốc tế cũng như khu vực về trợ giúp pháp lý nói riêng và tiếp cận công lý trong hệ thống tư pháp nói chung, xây dựng hình ảnh, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm những thành tựu của trợ giúp pháp lý ở Việt Nam./.
Tài liệu tham khảo:
  1. Thị trường dịch vụ pháp lý và phát triển thị trường dịch vụ pháp lý -ThS. Dương Bạch Long – Viện Khoa học pháp lý (https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2604)
  2. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.
  3. Luật TGPL năm 2017 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành.
  4. Các báo cáo, số liệu thống kê của Cục TGPL, Bộ Tư pháp.
 

[1] Theo quy định tại Điều 30 Luật Luật sư năm 2006 thì Dịch vụ pháp lý khác của luật sư bao gồm giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc liên quan đến thủ tục hành chính; giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại; dịch thuật, xác nhận giấy tờ, các giao dịch và giúp đỡ khách hàng thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật. Chú ý: Khi thực hiện dịch vụ pháp lý khác, luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật có liên quan.
[2] ngày 18/01/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 90/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025.
[3] Ngày 22/02/2022 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025.
[4] Ngày 14/10/2021 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, giai đoạn I từ năm 2021 – 2025.
[5] Điều 68 Hiến pháp Thái Lan, Điều 23 Hiến pháp Bỉ, Nhiệm vụ 35 Hiến pháp Nam Phi, Điều 39A Hiến pháp Ấn Độ, Điều 48 Hiến pháp nước Cộng hòa Liên bang Nga 1993, Điều 177 Hiến pháp nước Cộng hòa Dominica 2002, Điều 24 Hiến pháp Tây Ban Nha...
 
[6] Ví dụ: ở Tại Hà Lan, bị cáo trong các vụ án hình sự mà có thể áp dụng hình phạt tù là đối tượng được trợ giúp pháp lý miễn phí hoàn toàn. Các đối tượng khác, căn cứ vào mức thu nhập, tài sản, tình trạng hôn nhân và các điều kiện khác, người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải nộp một khoản tiền nhất định.
[7] Số liệu tính đến ngày 31/12/2021
[8] theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, trang 177.
[9] Tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng ngày 15/9/2021, trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khi nêu về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới cũng đã khẳng định nội dung trợ giúp pháp lý song song với bổ trợ tư pháp, cụ thể: “Nâng cao chất lượng các dịch vụ công trong lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý...”.