Trợ giúp pháp lý trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025

Kết quả thực hiện nội dung về trợ giúp pháp lý trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2025 trên địa bàn tỉnh Kiên Giang – nay là An Giang

PHẦN 1 – MỞ ĐẦU & BỐI CẢNH TRIỂN KHAI

Kính thưa Ban Tổ chức Hội thảo;
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, các chuyên gia, các đại biểu tham dự Hội nghị
Hôm nay, khi có mặt tại Hội thảo góp ý báo cáo giám sát việc thực hiện nội dung trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia, tôi mang theo không chỉ số liệu, báo cáo hay những văn bản đã ban hành, mà còn mang theo cả những trải nghiệm của chúng tôi từ cơ sở – nơi mà mỗi câu chuyện pháp lý đều gắn với một con người, một gia đình, một cuộc sống. Và chính những câu chuyện đó đã soi rọi để chúng tôi hiểu rõ hơn ý nghĩa thực sự của trợ giúp pháp lý trong tiến trình phát triển nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và nâng cao đời sống đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong quá trình triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021–2025, chúng tôi luôn xem trọng phương châm “chính sách đi vào cuộc sống” – bởi nếu chính sách không chạm được đến những người yếu thế, không giải quyết được trăn trở của từng hộ dân, thì độ hoàn thiện về mặt văn bản cũng sẽ chỉ là hình thức. Ngay từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22/02/2022 về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021–2025, và Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 về Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Kiên Giang đã xác định rằng: trợ giúp pháp lý không chỉ là một cấu phần đơn lẻ, mà là nền tảng để bảo đảm an sinh, giữ gìn hòa khí cộng đồng và hỗ trợ người dân phát triển bền vững.
Căn cứ các hướng dẫn của Bộ Tư pháp, đặc biệt là Công văn số 1918/BTP-TGPL ngày 10/6/2022 về thực hiện một số nội dung trong Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nôn thôn mới; Công văn số 6079/BTP-TGPL ngày 08/12/2023 về hướng dẫn kiểm tra, đánh giá nội dung trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia – chúng tôi có đầy đủ định hướng, căn cứ và tiêu chí để tổ chức các hoạt động trợ giúp pháp lý sao cho sát thực tiễn, đúng yêu cầu, đúng người và đúng việc.
Nhưng thực tiễn luôn đi trước lý thuyết. Khi xuống các xã vùng sâu, vùng xa, khi ngồi với đồng bào Khmer, khi lắng nghe những câu chuyện của người dân đang loay hoay giữa tranh chấp đất đai, hôn nhân gia đình, vay nợ, tín dụng, lối đi chung hay tranh chấp ranh giới – chúng tôi nhận ra một điều quan trọng: họ không cần những bài giảng dài, họ chỉ cần một người biết lắng nghe và chỉ đường đúng. Trợ giúp pháp lý vì thế không thể đứng ngoài cuộc sống; nó phải bước vào từng câu chuyện, đi cùng người dân từ lúc phát sinh mâu thuẫn đến khi tranh chấp được tháo gỡ.
Từ sự quan sát ấy, chúng tôi hiểu rằng muốn đưa nội dung trợ giúp pháp lý vào Chương trình mục tiêu quốc gia, không thể chỉ dừng ở mức “tổ chức tập huấn, truyền thông, cấp phát tờ gấp, xây dựng điểm”. Nó phải được lồng ghép một cách tự nhiên với hòa giải ở cơ sở, phải song hành cùng công tác phổ biến giáo dục pháp luật, và phải đặt trong tổng thể các mục tiêu phát triển bền vững của địa phương – đúng như tinh thần chỉ đạo xuyên suốt của Chính phủ: người dân là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực của mọi chính sách.
Đó là lý do ngay từ năm 2021, thay vì triển khai từng Chương trình một cách tách biệt, Trung tâm đã quyết định lồng ghép cả ba Chương trình mục tiêu quốc gia vào cùng một chu trình triển khai. Khi ấy, chưa có văn bản của Trung ương yêu cầu làm như vậy; chúng tôi chỉ dựa vào thực tế công việc và nhu cầu của cơ sở. Ba Chương trình đều hướng đến người yếu thế, đều cần truyền thông pháp luật, đều có nội dung trợ giúp pháp lý – vậy tổ chức rời rạc ba lần để rồi cán bộ xã phải họp ba lần, hòa giải viên phải tham dự ba lần, và ngân sách phải chi ba lần… liệu có hợp lý?
Chúng tôi chọn cách giảm gánh nặng cho cơ sở, không vì tiết kiệm quá mức, mà vì tôn trọng thời gian và công sức của họ. Một lớp tập huấn phục vụ được cả ba Chương trình; một buổi truyền thông nhưng truyền tải được đủ chính sách; một tờ gấp nhưng giải thích được đầy đủ quyền, thủ tục, đối tượng – đó là cách chúng tôi chọn để chính sách đến với người dân nhẹ nhàng nhất, ít tốn kém nhất nhưng hiệu quả nhất.
Cũng vì vậy, trong quá trình triển khai, khi phối hợp với Phòng Tư pháp cấp huyện (thời điểm bộ máy chính quyền địa phương còn tổ chức 3 cấp), với Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã, chúng tôi chú trọng phương pháp “ba trong một”: phổ biến giáo dục pháp luật – hòa giải ở cơ sở – trợ giúp pháp lý. Các văn bản hướng dẫn của Bộ Tư pháp đã giúp chúng tôi xác định rõ đối tượng, nội dung trọng tâm; còn thực tiễn cơ sở thì cho chúng tôi thấy cách thức triển khai phù hợp.
Một điều làm chúng tôi trăn trở nhiều nhất là: làm sao để người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, không cảm thấy sự xa cách khi tiếp cận pháp luật? Và chính trong quá trình đi cơ sở, chúng tôi nhận ra một sự thật giản dị nhưng quý giá: hòa giải viên là người đầu tiên nghe câu chuyện. Họ không chỉ là người làm công tác xã hội; họ là người hàng xóm, người thân quen, người chứng kiến câu chuyện ngay từ đầu. Nếu không hỗ trợ họ, nếu không trang bị kiến thức cho họ, nếu không kết nối họ với trợ giúp pháp lý – thì chúng tôi sẽ bỏ lỡ rất nhiều cơ hội giúp người dân tháo gỡ tranh chấp từ sớm.
Kính thưa Hội nghị, Phần mở đầu này tôi muốn dành để phác họa lại bối cảnh, căn cứ pháp lý và cách tiếp cận của Trung tâm trong giai đoạn đầu triển khai Chương trình. Đó là nền tảng để hiểu rõ hơn vì sao những mô hình như lồng ghép 3 Chương trình mục tiêu quốc gia hay cơ chế phối hợp hòa giải – trợ giúp pháp lý lại có thể phát huy tác dụng trong thực tiễn Kiên Giang.
Nếu phần đầu cho thấy bức tranh khái quát của Chương trình, thì chính những hoạt động cụ thể tại cơ sở đã phản ánh rõ nhất tinh thần mà Chính phủ và Bộ Tư pháp đặt ra. Khi bắt tay vào triển khai, chúng tôi ưu tiên những hoạt động gần dân, linh hoạt và có tác động trực tiếp. Điều đáng quý nhất là mọi hoạt động đều được thiết kế dựa trên nhu cầu thực tiễn ở xã, ấp, chứ không chạy theo hình thức.

PHẦN 2 – HOẠT ĐỘNG THỰC TIỄN, TRUYỀN THÔNG & SỬ DỤNG NGUỒN LỰC

Trong những năm 2021–2025, Trung tâm đã phối hợp tổ chức 95 hội nghị tập huấn của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nôn nông thôn mới với 4.691 lượt người tham dự. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng có hoạt động tương tự tại 12 xã với 1.764 đại biểu tham dự trên toàn tỉnh. Những hội nghị này không chỉ dừng lại ở việc truyền tải kiến thức pháp luật, mà còn là không gian trao đổi các tình huống thực tế mà hòa giải viên, trưởng ấp, cán bộ tư pháp – hộ tịch gặp phải hằng ngày. Nhiều buổi tập huấn đã kéo dài hơn dự kiến, không phải vì chúng tôi nói nhiều, mà những cán bộ ở cơ sở muốn hỏi thêm cho rõ, muốn kể lại câu chuyện của bà con đang vướng, muốn hiểu xem đâu là ranh giới giữa tranh chấp dân sự và vi phạm pháp luật. Từ đó, chúng tôi hiểu rằng việc tập huấn không chỉ là phổ biến quy định, mà là giải thích cho người tham dự cách pháp luật bảo vệ cho người dân.
Song hành với tập huấn, 82.157 tờ gấp “ba trong một” đã được phát hành. Đây là một trong những cách làm xuất phát từ sự quan sát đời sống: một người nông dân hay một hộ dân tộc thiểu số thường không đọc những cuốn sách pháp luật dày, nhưng họ giữ lại tờ giấy nhỏ có đủ thông tin họ cần. Vì vậy, tờ gấp được thiết kế cô đọng nhưng đầy đủ: mục tiêu của ba Chương trình, diện người được trợ giúp pháp lý, cách nộp hồ sơ, đường dây nóng, địa chỉ Trung tâm. Chúng tôi không in để báo cáo số lượng; chúng tôi in để từng tờ gấp thật sự được người dân mở ra khi cần.
Không thể không nhắc đến 40 bảng thông tin trợ giúp pháp lý được lắp đặt tại Ủy ban nhân dân xã, Công an xã – nơi người dân thường xuyên đến giải quyết thủ tục hành chính. Những chiếc bảng này đã giúp nhiều người lần đầu biết rằng mình thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí. Có những trường hợp người dân đến nộp hồ sơ chứng thực, đọc bảng thông tin, rồi mạnh dạn hỏi cán bộ: “Chuyện nhà tui vậy có được trợ giúp không?” – và đó chính là khoảnh khắc chính sách chạm vào đời sống.
Truyền thông là một mũi nhọn quan trọng. Website của Trung tâm đến nay đã có 1.264.567 lượt truy cập, con số này không chỉ phản ánh sự quan tâm, mà còn cho thấy người dân đang tìm đến pháp luật theo cách chủ động hơn. Hàng trăm bài viết chuyên mục trên Báo Pháp luật Việt Nam, Báo Kiên Giang về câu chuyện trợ giúp pháp lý,… thành công đã tạo sức lan tỏa lớn, điển hình như:“Chủ động tiếp cận, phục vụ kịp thời: Trợ giúp pháp lý Kiên Giang đồng hành cùng người yếu thế”, “Rào cản cần tháo gỡ cho người khuyết tật: Ghi nhận từ thực tế trợ giúp pháp lý ở Kiên Giang”;Kiên Giang: Đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật”; “Trợ giúp pháp lý Kiên Giang: 25 năm giúp người “người yếu thế” tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”;“Bảo đảm công bằng trong tiếp cận công lý của người dân vùng dân tộc thiểu số”; “Tăng cường hiểu biết về trợ giúp pháp lý của người dân và cán bộ cơ sở”; “Về cơ sở để đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật”; Mang hung khí đi xử lý vì mâu thuẫn Facebook, 4 thanh niên lĩnh án tù; Bài học pháp lý từ câu chuyện cha mẹ tặng cho tài sản cho con cái; 16 tuổi, không giấy tờ tùy thân, khởi xướng vụ án Giết người”; Sinh con với “chồng mới” khi chưa ly hôn: Làm sao để xác định cha cho con?; Sự đồng thuận không hợp pháp - Trẻ em cần được bảo vệ tốt hơn”; Công lý và lòng nhân ái – Lời tri ân lực lượng Công an nhân dân;…
Mỗi bài viết không chỉ thông tin, mà còn là kênh thức tỉnh nhận thức pháp lý cho người dân – nhiều người tìm đến Trung tâm sau khi đọc những bài báo như vậy. Kết quả của cách làm này cũng đã góp phần vào thành tích chung của tỉnh: 37 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 40 xã đạt nông thôn mới nâng cao, 03 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, và 06 huyện đạt chuẩn nông thôn mới; tư vấn 19 vụ việc, tham gia bảo vệ hoặc bào chữa 186 vụ việc trong Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, và 174 vụ việc thuộc lĩnh vực xây dựng nông thôn mới. Ghi nhận cách làm hữu ích cho người dân, một cá nhân Trung tâm và một tập thể Sở Tư pháp Kiên Giang đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen.
Một điểm quan trọng cần được nhấn mạnh là việc sử dụng nguồn vốn thực hiện Chương trình. Trong giai đoạn 2021–2025, tổng kinh phí được giao cho nội dung trợ giúp pháp lý thuộc Chương trình phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số là 484,7 triệu đồng, trong đó 421 triệu đồng là vốn Trung ương, phần còn lại là vốn đối ứng của địa phương. Đây là nguồn lực quý giá, được giao trong bối cảnh nhu cầu thực hiện nhiệm vụ lớn nhưng ngân sách luôn cần tiết kiệm – vì vậy, chúng tôi đặt mục tiêu sử dụng vốn theo hướng “đúng – đủ – hiệu quả – không lãng phí – không chồng chéo”.
Thực tế triển khai đã chứng minh điều đó. Tất cả kinh phí đều được dành cho đúng các hoạt động mà Quyết định 1719/QĐ-TTg, Quyết định 263/QĐ-TTg và các hướng dẫn của Bộ Tư pháp yêu cầu: tập huấn, truyền thông, cung cấp thông tin pháp luật, hỗ trợ năng lực cho cán bộ cơ sở. Không có một khoản nào chi cho hoạt động ngoài phạm vi; không có chi trùng lặp giữa các Chương trình; không có chi hình thức hay chi “để đủ báo cáo”. Chính nhờ mô hình lồng ghép 3 Chương trình này mà mỗi đồng chi ra đều tạo hiệu quả: một lớp tập huấn phục vụ cả ba Chương trình; một buổi truyền thông nhưng phổ biến đủ ba nội dung; một sản phẩm truyền thông dùng chung cho tất cả các đối tượng.
Đến ngày 15/11/2025, chúng tôi đã giải ngân 375,778 triệu đồng; ước đến cuối năm đạt 444,628 triệu đồng – tất cả đều gắn với hoạt động thực chất, hiệu quả. Đây không phải là những con số khô khan; đằng sau nó là hàng nghìn hòa giải viên được trang bị kiến thức, là những vụ việc được hòa giải thành mà không phải đưa nhau ra tòa.
Từ những hoạt động cụ thể đó, chúng tôi càng tin rằng: khi chính sách đi đúng vào cuộc sống, thì không cần những khẩu hiệu lớn; người dân sẽ tự cảm nhận được giá trị của nó. Và chính niềm tin đó đã tạo động lực để bước vào các phần việc khó hơn: cơ chế phối hợp hòa giải – trợ giúp pháp lý, tác động xã hội và bài học kinh nghiệm – những nội dung tôi xin được trình bày tiếp ở phần sau.
Kính thưa Hội nghị, trong suốt quá trình thực hiện Chương trình, điều làm chúng tôi nhận ra những khoảnh khắc rất đời thường ở cơ sở, nơi mỗi mâu thuẫn dân sự đều có thể trở thành tranh chấp nếu không ai kịp thời tháo gỡ. Và chính từ những câu chuyện đó, chúng tôi hình thành nên cơ chế phối hợp mà hôm nay xin được chia sẻ – một cơ chế không có trong bất kỳ giáo trình nào, nhưng lại rất tự nhiên từ thực tiễn: hòa giải ở cơ sở – nhận diện đối tượng trợ giúp pháp lý – can thiệp từ sớm – hỗ trợ công nhận kết quả hòa giải thành.

PHẦN 3 – CƠ CHẾ PHỐI HỢP HÒA GIẢI – TRỢ GIÚP PHÁP LÝ & TÁC ĐỘNG XÃ HỘI

Hòa giải viên chính là “người phát hiện đầu tiên” trong mọi mâu thuẫn. Họ không phải là người ngồi trong văn phòng, mà là người bước vào tận nhà dân, nghe những lời trách móc, những nỗi bức xúc, những vướng mắc tưởng chừng nhỏ nhưng có thể kéo dài nhiều năm. Một quyết định sai, một câu nói thiếu chuẩn mực, một vụ việc không được hướng dẫn kịp thời – tất cả có thể đẩy người dân từ chỗ chỉ cần hòa giải sang chỗ phải khiếu nại, khiếu kiện, thậm chí mâu thuẫn kéo dài.
Chính vì vậy, trong từng lớp tập huấn của Chương trình, chúng tôi xem trọng nhất phần hướng dẫn nhận diện người thuộc diện được trợ giúp pháp lý và cách thức kết nối với Trung tâm. Khi hòa giải viên biết rõ ai là người có quyền được hỗ trợ, họ sẽ đưa ra lời khuyên đúng, tránh được rất nhiều sai lầm mà người dân dễ mắc phải trong giai đoạn đầu của tranh chấp. Nhiều vụ việc trước đây tưởng phải đưa ra Tòa, nay chỉ cần hòa giải là giải quyết được tận gốc.
Đặc biệt, chúng tôi triển khai mạnh mẽ cơ chế “hậu hòa giải” – một bước rất quan trọng nhưng ít nơi chú trọng. Khi vụ việc hòa giải thành, nếu người dân thuộc diện trợ giúp pháp lý, Trung tâm sẽ hỗ trợ họ lập hồ sơ đề nghị Tòa án xem xét công nhận kết quả hòa giải thành. Việc này giúp cho thỏa thuận của hai bên có giá trị như một bản án, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị, và quan trọng nhất là có hiệu lực thi hành ngay. Làm được điều đó, những vụ việc như phân chia ranh giới, bồi thường thiệt hại nhỏ, tranh chấp tài sản, tranh chấp lối đi… sẽ được giải quyết dứt điểm, không để lại hệ quả về sau.
Đối với những vụ việc hòa giải không thành, trợ giúp viên pháp lý sẽ bước vào hỗ trợ ngay từ giai đoạn tiền tố tụng, hướng dẫn người được trợ giúp pháp lý chuẩn bị chứng cứ, xác định đúng quan hệ pháp luật, tránh việc khởi kiện sai, nộp đơn sai, yêu cầu sai thẩm quyền… Điều này giúp giảm đáng kể những vụ việc không đáng phải tranh tụng, và nếu vụ việc thật sự cần đưa ra Tòa, thì người dân cũng đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, hạn chế rủi ro pháp lý và trợ giúp pháp lý sẽ đồng hành cùng họ cho đến khi giải quyết xong vụ án.
Sự phối hợp này không phải là điều gì mới mẻ; nó chỉ đơn thuần xuất phát từ quan điểm “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm”. Và chính cách làm ấy sẽ đem lại những tác động xã hội rất rõ rệt. Tranh chấp kéo dài giảm dần. Khiếu kiện vượt cấp hầu như không xảy ra trong các vụ việc thuộc diện trợ giúp pháp lý. Nhiều hộ dân sau khi được hỗ trợ đã chủ động vận động người thân trong gia đình sống hòa thuận hơn, tuân thủ pháp luật hơn. Các nhóm đối tượng yếu thế – người dân tộc thiểu số, người nghèo, người khuyết tật, người già neo đơn – đều được tiếp cận công lý một cách nhẹ nhàng, không rào cản.
Chúng tôi còn thấy một điều giá trị nữa: khi được hướng dẫn đúng, họ bớt sợ pháp luật. Nhiều người dân vùng sâu từng chia sẻ rằng trước đây họ ngại lên xã, ngại tiếp xúc với cán bộ, ngại đụng đến pháp luật vì sợ “phiền phức”. Nhưng sau khi được tiếp cận các buổi truyền thông và được chính hòa giải viên địa phương dẫn dắt đến gặp trợ giúp viên pháp lý, họ thấy rằng pháp luật không phải là thứ xa lạ – pháp luật cũng có thể thân thiện, gần gũi, bảo vệ và đồng hành với họ.
Kính thưa các đồng chí, tất cả những chuyển biến đó không chỉ góp phần vào thành công của Chương trình mục tiêu quốc gia, mà còn nâng cao chất lượng đời sống pháp lý trong cộng đồng. Một xã hội nơi người dân biết sử dụng pháp luật sớm, đúng và đủ, sẽ ít xảy ra xung đột hơn; một xã hội nơi mâu thuẫn được hóa giải từ gốc, sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí xã hội; và quan trọng nhất, đó là một xã hội bền vững, ổn định, đoàn kết, phù hợp với các mục tiêu phát triển nông thôn mới nâng cao và kiểu mẫu.
Những tác động tích cực đó là sợi dây kết nối từ những hoạt động nhỏ: từ tờ gấp, bảng thông tin, trang web, bài báo, đến những buổi hòa giải và những giờ đồng hành trong tiền tố tụng. Không có điều gì lớn lao ở đây, nhưng chính những điều nhỏ, làm đúng và làm đều, lại tạo nên một giá trị rất lớn trong đời sống pháp lý của người dân Kiên Giang – và nay là tỉnh An Giang sau sáp nhập.

PHẦN 4 – BÀI HỌC KINH NGHIỆM & ĐỊNH HƯỚNG GIAI ĐOẠN TỚI

Kính thưa Hội nghị, từ thực tiễn triển khai trong nhiều năm, từ những câu chuyện rất đời ở cơ sở và từ những kết quả của ba Chương trình mục tiêu quốc gia, chúng tôi rút ra một số bài học mà theo tôi, có giá trị không chỉ đối với Kiên Giang trước đây, mà còn với An Giang sau sáp nhập, và với nhiều địa phương đang thực hiện nhiệm vụ tương tự.
Điều đầu tiên mà chúng tôi muốn nhấn mạnh là: không có mô hình nào thành công nếu tách rời khỏi thực tiễn. Thực tiễn cơ sở luôn phong phú, nhanh, đa dạng và có khi khác xa với cách chúng ta hình dung trong các văn bản. Chúng tôi chỉ đơn giản quan sát thật kỹ nhu cầu của người dân, lắng nghe những điều cán bộ xã còn vướng, những gì hòa giải viên còn thiếu, rồi mới thiết kế hoạt động. Chính vì vậy, dù không có một văn bản nào quy định phải lồng ghép ba Chương trình ngay từ đầu, nhưng chúng tôi vẫn làm – không phải để tạo khác biệt, mà để phù hợp với hơi thở cuộc sống. Đó là bài học lớn: làm chính sách phải lấy nhu cầu của dân làm trung tâm, chứ không lấy quy trình làm trung tâm.
Điều thứ hai mà chúng tôi thấm thía là: muốn trợ giúp pháp lý hiệu quả, phải nuôi dưỡng mối quan hệ tin cậy trong cộng đồng. Không chỉ là niềm tin giữa người dân với pháp luật, mà là niềm tin giữa người dân với chính những người đại diện cho pháp luật: hòa giải viên, công chức tư pháp – hộ tịch, trợ giúp viên pháp lý. Một câu nói thiếu đúng lúc, một hướng dẫn chưa đủ kỹ, một lời giải thích còn lúng túng – đều có thể khiến người dân e dè, ngại tiếp cận pháp luật. Ngược lại, một lời khuyên chuẩn xác, một buổi hòa giải thấu tình đạt lý, một lần hỗ trợ đúng người – đều có thể khiến người dân tin và tìm đến pháp luật nhiều hơn. Chính vì vậy, xây dựng mạng lưới “người của dân” – từ xã đến tỉnh – chính là nền móng cốt lõi để Chương trình mục tiêu quốc gia phát huy hiệu quả.
Bài học thứ ba là: truyền thông phải đi trước một bước. Rất nhiều trường hợp chỉ vì thiếu hiểu biết pháp luật mà người dân để tranh chấp kéo dài, thậm chí xảy ra xô xát đáng tiếc. Khi website của Trung tâm vượt mốc hơn 1,2 triệu lượt truy cập, khi những bài viết trên Báo Pháp luật Việt Nam và Báo Kiên Giang được chia sẻ rộng rãi, chúng tôi nhận ra rằng người dân sẵn sàng đọc, sẵn sàng học, sẵn sàng thay đổi – chỉ cần thông tin đến với họ kịp thời và đúng cách. Một bài báo đôi khi có giá trị hơn cả một hội nghị, bởi nó đến được với người dân đúng lúc họ cần nhất. Truyền thông không phải để “báo cáo thành tích”; truyền thông là để ngăn ngừa tranh chấp từ gốc, để pháp luật đi vào đời sống một cách tự nhiên nhất.
Bài học thứ tư là: sử dụng nguồn vốn phải công tâm, minh bạch và tiết kiệm. Không phải vì sợ kiểm tra hay báo cáo, mà vì chúng tôi hiểu mỗi đồng vốn đều đến từ ngân sách – từ mồ hôi của người dân, từ sự điều hành thận trọng của Chính phủ. Khi lồng ghép ba Chương trình, chúng tôi không chỉ giảm số hội nghị, giảm chi phí đi lại, giảm thời gian của cán bộ, mà còn giảm sự chồng chéo trong triển khai. Chính cách làm này đã giúp kiềm chế chi phí phát sinh, đồng thời tăng hiệu quả tiếp cận cho cộng đồng. Đó là bài học mà tôi tin rằng trong bối cảnh ngân sách còn nhiều khó khăn, càng phải trân trọng và phát huy.
Bài học thứ năm – cũng là bài học lớn nhất: giải quyết tranh chấp sớm bao giờ cũng tốt hơn xử lý khiếu kiện muộn. Sự kết hợp giữa hòa giải – trợ giúp pháp lý – công nhận kết quả hòa giải thành không chỉ giúp tiết kiệm chi phí xã hội, mà còn xây dựng văn hóa thượng tôn pháp luật từ những điều nhỏ. Một cộng đồng biết tự giải quyết mâu thuẫn một cách văn minh là một cộng đồng mạnh. Và chính những kết quả cụ thể của chúng tôi trong giai đoạn này – từ số vụ trợ giúp pháp lý can thiệp thành công gián tiếp thông qua cán bộ ấp, số vụ được công nhận hòa giải thành – đã cho thấy hướng đi đó là phù hợp.
Tuy nhiên, mô hình trên, cách làm trên vẫn chưa thực sự đạt được kết quả như mong muốn, do một số quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý đã bộc lộ bất cập; việc phối hợp với các cơ quan đôi khi chưa chặt; người dân vùng sâu, vùng xa còn e ngại tiếp cận dịch vụ pháp lý. Đặc biệt, số lượng vụ việc trợ giúp pháp lý giới thiệu từ cơ sở còn rất ít, chủ yếu là do các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo, giới thiệu tới.
Đi tìm hiểu nguyên nhân, có lẽ một phần do thể chế chưa ràng buộc trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc đảm bảo quyền được trợ giúp pháp lý cho người yếu thế, phần khác chưa gắn với các tiêu chí cụ thể về xây dựng xã nông thôn mới, nông thôn mới nâng cao và nông thôn mới kiểu mẫu vì chưa nắm được nhu cầu trợ giúp pháp lý khi nào thì phát sinh. Mặt khác, chính quyền cơ sở còn tâm lý có phần e ngại khi có trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia, sợ có khi họ “đối đầu” với chính quyền trong bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người yếu thế.
Kính thưa Hội nghị,Trong giai đoạn tới, khi tỉnh thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp theo chủ trương cải cách bộ máy của Chính phủ, hoạt động trợ giúp pháp lý sẽ có sự thay đổi tự nhiên về phương thức vận hành. Không còn cấp huyện – điều này đồng nghĩa với việc cấp xã sẽ trở thành trung tâm của mọi mối quan hệ dân sự, nơi tiếp nhận đầu tiên mọi tranh chấp, kiến nghị, khó khăn pháp lý của người dân; còn cấp tỉnh – cụ thể là Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước – sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp, không còn tầng nấc trung gian. Đây không chỉ là sự thay đổi về tổ chức hành chính, mà còn là cơ hội để làm cho công tác trợ giúp pháp lý gần dân hơn, sâu hơn và hiệu quả hơn.
Chúng tôi dự kiến tăng cường kết nối trực tiếp giữa Trung tâm và Ủy ban nhân dân xã/phường/đặc khu, coi mỗi xã là một “trạm pháp lý cộng đồng”, nơi người dân có thể được hướng dẫn đúng từ ban đầu. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân và các cơ quan tố tụng theo hướng tinh gọn, hiệu quả, tránh gây thêm thủ tục cho người dân trong giai đoạn chuyển tiếp. Song song đó, việc sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 – hiện Bộ Tư pháp đang lấy ý kiến – cũng sẽ là cơ hội để thể chế hóa những cơ chế hiệu quả từ thực tiễn: hỗ trợ hậu hòa giải, nhận diện sớm đối tượng trợ giúp pháp lý, và nâng cao trách nhiệm của mạng lưới cộng tác hỗ trợ tại cơ sở.
Tất cả những định hướng đó đều xuất phát từ một mong muốn chung: làm sao để pháp luật đến với người dân nhẹ nhàng hơn, ít rào cản hơn, và hữu ích hơn. Khi người dân cảm thấy pháp luật gần gũi, họ sẽ tìm đến pháp luật ngay từ sớm. Và khi pháp luật được vận hành đúng, xã hội sẽ bớt tranh chấp, bớt mâu thuẫn, bớt lo âu.

PHẦN 5 – KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

Kính thưa Hội nghị, nhìn lại chặng đường đã qua, tôi càng tin rằng trợ giúp pháp lý  là một phần của quá trình xây dựng văn hóa pháp luật trong cộng đồng; một công cụ để kiến tạo sự công bằng; một cây cầu để kéo pháp luật lại gần hơn với đời sống của người dân. Và trong bối cảnh triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia, trợ giúp pháp lý lại càng mang trọng trách lớn hơn: bảo đảm người dân được tiếp cận công lý trên hành trình phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Chúng ta không đi tìm những điều lớn lao; chúng ta chỉ cần làm tốt những điều nhỏ, nhưng làm với tất cả sự tận tâm. Một tờ gấp phát đúng người; một buổi truyền thông cho đúng đối tượng; một cuộc hòa giải được hỗ trợ kịp thời; một hồ sơ công nhận hòa giải thành được hoàn chỉnh; một vụ việc tiền tố tụng được giải thích thấu đáo – tất cả những điều nhỏ bé ấy, khi được làm đều đặn và đúng đắn, sẽ tạo thành sự thay đổi lớn trong đời sống pháp lý của cộng đồng. Và đó chính là linh hồn của trợ giúp pháp lý trong các Chương trình mục tiêu quốc gia.
Trong các chuyến đi về cơ sở, chúng tôi lại nhớ câu nói của một hòa giải viên lớn tuổi ở vùng nông thôn Kiên Giang: “Ở quê mình, cái gì giải quyết bằng tình được thì cố mà giữ, có thêm pháp luật hỗ trợ thì càng tốt, chứ đừng để đưa nhau ra tòa mà mệt cả hai.” Đó không phải là lý luận, nhưng là chân lý rất thật trong đời sống. Và chính câu nói đó đã giúp tôi hiểu sâu sắc rằng: sự phối hợp giữa hòa giải và trợ giúp pháp lý không chỉ là giải pháp nghiệp vụ, mà là cách gìn giữ tình làng nghĩa xóm – điều mà Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đặt lên hàng đầu.
Trong giai đoạn tới, khi bộ máy chính quyền thay đổi theo hướng tinh gọn hai cấp, khi yêu cầu của xã hội về minh bạch, công bằng và tiếp cận công lý ngày càng cao, trợ giúp pháp lý càng cần nâng cao vai trò của mình. Chúng tôi xác định rõ ba trọng tâm:
Thứ nhất, củng cố hơn nữa mạng lưới kết nối tại cơ sở, coi hòa giải viên, cán bộ tư pháp – hộ tịch, trưởng ấp, người có uy tín trong cộng đồng là những “cánh tay nối dài” của trợ giúp pháp lý. Không một chính sách nào có thể đi xa nếu thiếu những người hiểu dân và được dân tin.
Thứ hai, tổ chức lại quy trình hỗ trợ theo mô hình 2 cấp để giảm tối đa thủ tục cho người dân. Người dân không phải đi lại nhiều lần, cũng không cần phải nhớ quá nhiều đầu mối. Chúng tôi sẽ chủ động hơn, linh hoạt hơn, và sâu sát hơn để chính sách không dừng lại ở hội nghị mà trở thành thói quen ứng xử của cộng đồng.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới truyền thông và tham gia tích cực vào quá trình sửa đổi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Những bài học từ thực tiễn Kiên Giang – An Giang nên  được chuyển hóa thành quy định pháp luật để người dân cả nước đều hưởng lợi. Đây không phải là “kinh nghiệm mẫu”, mà chỉ là những quan sát chân thành từ thực tiễn – nếu phù hợp, mong được đóng góp vào quá trình hoàn thiện thể chế của Bộ Tư pháp.
Kính thưa các đồng chí, khi nhìn lại những con số: hơn bốn ngàn lượt người được tập huấn; hơn tám mươi ngàn tờ gấp được phát; hàng trăm vụ việc trợ giúp pháp lý được hỗ trợ trong khuôn khổ Chương trình; hơn một triệu lượt truy cập vào website; hàng trăm bài viết câu chuyện pháp lý hiệu quả… chúng ta sẽ thấy kết quả là đáng khích lệ. Nhưng nếu nhìn vào hành trình, ta sẽ thấy giá trị còn lớn hơn: đó là hành trình của những con người làm nghề pháp lý với trái tim hướng về cộng đồng; hành trình của những người tin rằng pháp luật không phải là rào cản, mà là điểm tựa; hành trình của những cán bộ cấp xã ngày đêm giữ gìn sự bình yên cho từng ấp; hành trình của những trợ giúp viên pháp lý âm thầm đi cùng người dân từ những bước đi đầu tiên của tranh chấp cho đến giây phút họ được bảo vệ đúng pháp luật.
Chúng tôi không coi đây là thành tích. Chúng tôi coi đây là trách nhiệm – trách nhiệm của một cơ quan pháp luật đứng giữa lòng dân, trách nhiệm của những người hưởng lương từ ngân sách và phải làm sao để từng đồng ngân sách chuyển hóa thành lợi ích thật của người dân.
Với tinh thần đó, tôi xin thay mặt Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước số 1 tỉnh An Giang (trước đây là Kiên Giang) bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Bộ Tư pháp; sự phối hợp của các sở, ngành; sự ủng hộ của chính quyền cấp xã; và đặc biệt là niềm tin của người dân. Bởi chỉ khi người dân tin vào trợ giúp pháp lý, tin vào pháp luật, thì chúng ta mới có thể xây dựng được một cộng đồng văn minh, ổn định và phát triển bền vững – đúng như mục tiêu của các Chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn sắp tới 2025 - 2030.
Xin trân trọng cảm ơn Hội nghị đã lắng nghe.
                                                                                        Định Giang