Công tác tiếp nhận thông tin và trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán
Mua bán người thường là hành vi “trá hình”, thủ đoạn mua bán người ngày càng tinh vi, phức tạp
1. Đặc điểm nhận diện về hành vi mua bán người.
- Các đối tượng thực hiện hành vi mua bán người được che giấu bởi nhiều hình thức khác nhau như: tham quan, du lịch, ký kết làm ăn kinh tế, lao động xuất khẩu, tổ chức kết hôn thông qua môi giới, nhận con nuôi, bắt cóc, chiếm đoạt phụ nữ, trẻ em… Hành vi “mua bán người” được Luật Phòng, chống mua bán người dẫn chiếu theo quy định của Bộ luật hình sự. Theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, tội mua bán người bao gồm các hành vi: (i) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; (ii) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; (iii) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người khác để thực hiện các hành vi nêu trên[1]. Tội mua bán người dưới 16 tuổi bao gồm các hành vi: (i) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để giao, nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo; (ii) Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác; (iii) Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người dưới 16 tuổi để thực hiện các hành vi nêu trên[2].
- Chủ thể thực hiện mua bán người: rất đa dạng, có thể là bất kỳ ai không phân biệt quốc tịch, dân tộc, giới tính, tuổi tác, trình độ, nơi sinh sống, nghề nghiệp. Đối tượng phạm tội chủ yếu là bọn lưu manh chuyên nghiệp, có tiền án, tiền sự, cấu kết với các đối tượng ở vùng sâu, vùng xa, biên giới tạo thành đường dây khép kín để lôi kéo, lừa gạt đưa nạn nhân ra nước ngoài bán. Lợi dụng chính sách mở cửa của Việt Nam, các đối tượng vào thăm thân, du lịch, liên kết làm ăn kinh tế để lừa phụ nữ, trẻ em dưới dạng đưa đi làm việc ở nước ngoài, nuôi con nuôi, kết hôn người nước ngoài rồi đưa ra nước ngoài bán....
- Thủ đoạn: Đe dọa hoặc sử dụng bạo lực, ép buộc, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hoặc vị thế dễ bị tổn thương (lợi dụng điểm yếu của nạn nhân); cho hoặc nhận tiền hay lợi ích để đạt được sự đồng ý của người có quyền kiểm soát đối với người khác (bố, mẹ, ông, bà, anh, chị… nạn nhân).
- Mục đích: Coi người bị mua bán là một loại hàng hóa để trao đổi nhằm có tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác; bóc lột tình dục, ép buộc làm nô lệ tình dục; Cưỡng bức lao động; buộc đi ăn xin; lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân một cách bất hợp pháp; ép buộc làm vợ hoặc chồng; ép buộc đẻ con trái ý muốn; ép buộc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; vì mục đích vô nhân đạo khác.
- Địa điểm thực hiện: Bất kỳ nơi nào trong lãnh thổ quốc gia (mua bán người trong nước): từ địa phương này sang địa phương khác, mua bán người ra/vào khu công nghiệp, khu chế xuất; vùng biên giới, cửa khẩu; các quốc gia khác.
- Nạn nhân: là đối tượng của hành vi mua bán người và có thể là bất kỳ ai, đàn ông hoặc phụ nữ, người lớn hoặc trẻ em, người dân tộc thiểu số hoặc người Kinh, người có quốc tịch Việt Nam, người có quốc tịch nước ngoài và người không có quốc tịch...
2. Khung pháp lý về trợ giúp pháp lý (TGPL) cho nạn nhân bị mua bán
Phòng, chống mua bán người từ lâu được coi là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên và lâu dài. Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo quyết liệt đối với công tác đấu tranh phòng, chống mua bán người tại Việt Nam, trong đó có việc tham gia các điều ước quốc tế và nội luật hóa, hoàn thiện pháp luật trong nước, tăng cường thực thi các cam kết quốc tế và theo dõi thi hành pháp luật quốc gia về phòng, chống nạn mua bán người. Năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Palermo về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Năm 2015, Việt Nam ký Công ước ASEAN về Phòng chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Luật Phòng, chống mua bán người có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2012; Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định một số tội mua bán người và có liên quan đến mua bán người. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 hướng dẫn áp dụng Điều 150 về tội mua bán người và Điều 151 về tội mua bán người dưới 16 tuổi của Bộ luật Hình sự.
Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 quy định nạn nhân của hành vi mua bán người được tư vấn pháp luật để phòng ngừa bị mua bán trở lại và được trợ giúp pháp lý để làm thủ tục đăng ký hộ khẩu, hộ tịch, nhận chế độ hỗ trợ, đòi bồi thường thiệt hại, tham gia tố tụng và các thủ tục pháp lý khác có liên quan đến vụ việc mua bán người. Các trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý (Điều 36 Luật Phòng, chống mua bán người). Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán theo quy định của pháp luật (khoản 4 Điều 47 Luật Phòng, chống mua bán người).
Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/2/2013 của Chính phủ bổ sung “nạn nhân theo quy định của pháp luật phòng, chống mua bán người” thuộc diện được trợ giúp pháp lý để phù hợp với quy định của Luật Phòng, chống mua bán người và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đặc biệt, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định nạn nhân của hành vi mua bán người có khó khăn về tài chính thuộc diện được trợ giúp pháp lý[3]. Ngày 15/11/2017, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 08/2017/TT-BTP quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý. Thông tư quy định rõ những giấy tờ cần có để chứng minh là nạn nhân của hành vi mua bán người có khó khăn về tài chính. Và còn nhiều Thông tư hướng dẫn nghiệp vụ để tạo thuận lợi tối đa trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý, trong đó có nạn nhân bị mua bán.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận trợ giúp pháp lý, liên ngành Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư liên tịch số 10/2018/TTLT-BTP-BCA-BQP-BTC-TANDTC-VKSNDTC (Thông tư liên tịch số 10) ngày 29/6/2018 quy định về phối hợp thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, trong đó quy định về vấn đề giải thích, thông tin và chuyển gửi nhu cầu về trợ giúp pháp lý.
Trên cơ sở quy định của Luật Trợ giúp pháp lý và các văn bản có liên quan, năm 2021, Cục Trợ giúp pháp lý đã phối hợp với Vụ Pháp luật hình sự - hành chính nghiên cứu để Bộ Tư pháp phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch số 05/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP-BTP ngày 15/12/2021 quy định phối hợp trong việc tổ chức phiên tòa trực tuyến để tạo điều kiện thuận lợi cho người được trợ giúp pháp lý, trong đó có nạn nhân bị mua bán tiếp cận công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Nhằm tăng cường công tác phối hợp về trợ giúp pháp lý cho diện người được trợ giúp pháp lý và trên cơ sở thống nhất nội dung Chương trình phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao về việc người thực hiện TGPL trực tại Tòa án, Cục Trợ giúp pháp lý đã tham mưu Bộ Tư pháp ký kết Chương trình phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao về việc người thực hiện TGPL trực tại Tòa án (Chương trình phối hợp số 1603/CTPH-BTP-TANDTC ngày 19/5/2022). Đồng thời, tham mưu Bộ trưởng Bộ Tư pháp ký Công văn số 2919/BTP-TGPL ngày 12/8/2022 gửi Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương về việc triển khai Chương trình phối hợp.
Ngày 09/02/2021, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quyết định số 193/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 193/QĐ-TTg). Theo đó, Bộ Tư pháp có trách nhiệm hướng dẫn các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán theo quy định của pháp luật[4]. Trên cơ sở Quyết định số 193/QĐ-TTg và việc tổ chức triển khai nhiệm vụ được giao trong Luật Phòng, chống mua bán người, Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình phòng, chống mua bán người của Bộ Tư pháp giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030 (Quyết định số 1418/QĐ-BTP ngày 13/9/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp), trong đó gồm các nội dung sau:
- Rà soát tổng thể các quy định của pháp luật có liên quan đến trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật;
- Hướng dẫn các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán theo quy định của pháp luật;
- Thực hiện truyền thông về quyền được trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán;
- Tổ chức tập huấn về kiến thức và kỹ năng trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán người cho người thực hiện trợ giúp pháp lý.
Tiếp theo đó, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn số 391/BTP-TGPL ngày 14/02/2022 về việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán gửi Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhằm đôn đốc các địa phương tập trung, đẩy mạnh hơn nữa nhiệm vụ của ngành Tư pháp về cung cấp dịch vụ trợ giúp pháp lý có chất lượng cho nạn nhân bị mua bán thuộc diện được trợ giúp pháp lý. Để hưởng ứng Ngày Toàn dân phòng, chống mua bán người, hàng năm Cục Trợ giúp pháp lý đều có Công văn gửi Trung tâm TGPL nhà nước 63 tỉnh/thành phố đề nghị tích cực triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý cho nạn nhân của hành vi mua bán, trong đó chú trọng vào các nội dung như: chủ động nắm bắt thông tin, nhu cầu trợ giúp pháp lý, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và cộng đồng xã hội về quyền được trợ giúp pháp lý của nạn nhân bị mua bán….
Bên cạnh đó, công tác hướng dẫn các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán theo quy định của pháp luật được thực hiện thông qua công tác hướng dẫn nghiệp vụ, tập huấn kỹ năng cho đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến (online), kịp thời chỉ đạo các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước các tỉnh/thành phố tăng cường phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, các cơ quan có liên quan khác để giới thiệu, chuyển gửi vụ việc cho Trung tâm, tăng cường thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, đặc biệt là các vụ việc tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý (trong đó có nạn nhân của hành vi mua bán người có khó khăn về tài chính),…qua đó giúp người được trợ giúp pháp lý bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Các văn bản nói trên đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý kịp thời cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí có chất lượng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bị mua bán thuộc diện được trợ giúp pháp lý.
3. Tiếp nhận thông tin về vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán
Việc tiếp nhận thông tin về vụ việc trợ giúp pháp lý được tiếp nhận qua nhiều nguồn:
Thứ nhất, người được trợ giúp pháp lý tự tìm đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý. Khoản 2 Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định người được trợ giúp pháp lý có quyền “tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý”. Do đó, người được trợ giúp pháp lý có thể tự tìm đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý để yêu cầu trợ giúp pháp lý;
Thứ hai, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý chủ động tiếp cận nhu cầu trợ giúp pháp lý.
Các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thông qua phương thức truyền thông để tiếp cận với nhu cầu trợ giúp pháp lý của người dân. Các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước lắp đặt các bảng thông tin, hộp tin và cung cấp tờ gấp về trợ giúp pháp lý tại các cơ quan tiến hành tố tụng, trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, trụ sở Nhà văn hóa, điểm bưu điện văn hóa xã…; chủ động phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng như Đài phát thanh, truyền hình, báo chí để truyền thông về trợ giúp pháp lý.
Ngoài ra, pháp luật trợ giúp pháp lý quy định tổ chức ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý, luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý, cộng tác viên trợ giúp pháp lý được trực tiếp nhận yêu cầu thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý.
Thứ ba, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm (Chi nhánh) tiếp nhận thông tin từ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng[5].
Theo quy định tại Điều 7 Thông tư liên tịch số 10, người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được trợ giúp pháp lý và có yêu cầu trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm, Chi nhánh. Trường hợp người bị hại, đương sự tự nhận mình là người được trợ giúp pháp lý và chưa có yêu cầu trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông tin cho Trung tâm, Chi nhánh biết.
Theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng đã nghiêm túc thực hiện việc giải thích, thông báo, thông tin về TGPL theo quy định. Người tiến hành tố tụng đã giải thích về quyền và nghĩa vụ của người được TGPL, ghi vào biên bản tố tụng và lưu tại hồ sơ vụ án. Khi phát hiện có đối tượng thuộc diện TGPL đã thông báo cho Trung tâm để Trung tâm xác minh nếu đúng diện người được TGPL thì cử Trợ giúp viên pháp lý hoặc luật sư ký kết hợp đồng với Trung tâm tham gia bào chữa hoặc đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL. Các ngành là thành viên Hội đồng phối hợp ngày càng quan tâm đến việc giải thích quyền được TGPL, thông báo, thông tin về TGPL, chính vì thế mà số đối tượng được TGPL do các cơ quan tiến hành tố tụng thông báo, giới thiệu đến các Trung tâm TGPL ngày càng tăng.
Đặc biệt tại địa phương, một số ngành khi kiểm tra các mặt công tác của ngành mình đã chủ động lồng ghép kiểm tra công tác phối hợp thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng nhằm thực hiện các quy định của pháp luật có liên quan đến hoạt động TGPL đảm bảo quyền con người, quyền công dân, nhờ đó số vụ việc TGPL trong tố tụng của các địa phương đã tăng lên hàng năm. Sự phối hợp giữa các cơ quan, người có thẩm quyền tiền hành tố tụng với Trung tâm TGPL nhà nước ngày càng nhịp nhàng, hiệu quả; công tác truyền thông về TGPL và Thông tư liên tịch số 10 đã được Hội đồng phối hợp địa phương triển khai phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ tư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Chi nhánh của Trung tâm tiếp nhận thông tin từ Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã và các tổ chức khác có liên quan
Theo quy định tại Điều 17a Thông tư số 03/2021/TT-BTP sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (TGPL) và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động TGPL; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ TGPL và quản lý chất lượng vụ việc TGPL; có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/7/2021 (Thông tư số 03/2021/TT-BTP) quy định: “Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ liên quan đến công dân, Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giải thích quyền được trợ giúp pháp lý và giới thiệu đến Trung tâm. Trường hợp người thuộc diện được trợ giúp pháp lý là người bị buộc tội, bị hại, đương sự trong các vụ việc tham gia tố tụng cư trú trên địa bàn thì Ủy ban nhân dân cấp xã giới thiệu theo mẫu số 13 ban hành kèm theo Thông tư này”. Do đó, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tiếp nhận thông tin từ các cơ quan tổ chức khác (như Phòng Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp xã, tổ chức hành nghề luật sư[6],…)
4. Kết quả việc thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán
Từ khi Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 có hiệu lực đến nay (2018-2022), đặc biệt từ khi thực hiện Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025 và định hướng đến năm 2030, cơ quan quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý thường xuyên chỉ đạo Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tập trung thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó có các vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán. Tất cả các vụ việc mua bán người khi có yêu cầu trợ giúp pháp lý đều được các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý cử người thực hiện trợ giúp pháp lý có trình độ, chuyên môn phù hợp để thực hiện trợ giúp pháp lý cho họ. 100% nạn nhân bị mua bán khi có yêu cầu TGPL đều được đáp ứng kịp thời. Trong đó, số vụ việc TGPL theo hình thức tham gia tố tụng chiếm chủ yếu, chiếm 89,8% tổng số vụ việc TGPL cho nạn nhân bị mua bán có khó khăn tài chính (một số địa phương thực hiện vụ việc theo hình thức tham gia tố tụng chiếm tuyệt đối 100% như Lạng Sơn, Lào Cai, Nghệ An, Điện Biên...); số vụ việc tư vấn pháp luật chiếm 8,2%; còn lại là vụ việc đại diện ngoài tố tụng. Đặc biệt, qua nắm bắt thông tin báo chí, một số vụ việc được dư luận xã hội quan tâm, trong đó có nạn nhân bị mua bán là người được trợ giúp pháp lý đã được các Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước chủ động tiếp cận, xác minh, kịp thời cử Trợ giúp viên pháp lý để thực hiện hỗ trợ, trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ (ví dụ: báo tienphong.vn ngày 01/08/2022 đưa tin: “Bắt kẻ lừa bán hai cô gái về Hải Phòng để bóc lột sức lao động”. Vụ việc này được bộ đội biên phòng thành phố Hải Phòng phát hiện và đã giải cứu thành công hai cô gái quê quán huyện Cư M’gar (tỉnh Đắk Lắk) khi đang bị các đối tượng mua bán người đưa từ Bắc Ninh về Hải Phòng. Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hải Phòng đã phối hợp với cơ quan điều tra để xác minh thông tin vụ việc).
Chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý ngày càng được chú trọng. Qua báo cáo của các địa phương và qua kiểm tra, theo dõi của Cục Trợ giúp pháp lý thì thấy rằng, hầu hết các vụ việc trợ giúp pháp lý (trong đó có vụ việc trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán) được đánh giá là đạt chất lượng và đạt chất lượng tốt, không có vụ việc nào bị khiếu kiện về chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Thông qua các vụ việc trợ giúp pháp lý cụ thể, các tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý đã bảo vệ được quyền lợi hợp pháp giúp cho người được trợ giúp pháp lý, giúp họ và thân nhân của họ và cộng đồng hiểu và có ý thức tôn trọng pháp luật hơn, qua đó góp phần vào việc ổn định an ninh chính trị, đấu tranh phòng, chống tội phạm ở địa phương.
5. Đánh giá, nhận xét
5.1. Ưu điểm
Trợ giúp cho nạn nhân của hành vi mua bán người có khó khăn về tài chính là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, đã được triển khai nghiêm túc trên thực tế, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước dành cho người yếu thế trong xã hội, nhằm giúp họ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, xóa bỏ tự ti, mặc cảm và được hưởng các quyền bình đẳng trước pháp luật.
Công tác TGPL cho nạn nhân nhìn chung được các cấp, các ngành quan tâm, chỉ đạo, trong đó có Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Tư pháp, Hội đồng phối hợp liên ngành về TGPL trong hoạt động tố tụng. Hệ thống chính sách pháp luật về TGPL nói chung cũng như TGPL cho nạn nhân cơ bản đã được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai các hoạt động TGPL. Hoạt động truyền thông về pháp luật TGPL cho nạn nhân được quan tâm, đẩy mạnh nhằm giúp nạn nhân biết quyền được TGPL của mình và tiếp cận với hệ thống TGPL miễn phí của nhà nước. Việc nâng cao năng lực của tổ chức và người thực hiện trợ giúp pháp lý được Bộ Tư pháp và các địa phương quan tâm.
Công tác trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán thời gian qua đã góp phần không nhỏ trong việc thực hiện các chính sách của nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mua bán người. Hệ thống văn bản pháp luật Phòng, chống mua bán người, Luật Trợ giúp pháp lý, các Luật có liên quan và văn bản hướng dẫn tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hện trợ giúp pháp lý, người dân và các cơ quan, tổ chức đã nhận thức được tốt hơn vai trò của trợ giúp pháp lý trong đời sống xã hội. Đặc biệt, nhiều Trợ giúp viên pháp lý và luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đã kịp thời bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân bị mua bán thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý, bảo đảm công lý, mang lại niềm tin vào tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước cũng như đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý. Nhiều người (đặc biệt là các nạn nhân đã được trợ giúp pháp lý) đã tham gia tích cực cùng với chính quyền địa phương và các cơ quan hữu quan chung tay góp phần đấu tranh đẩy lùi tệ nạn mua bán người. Từ đó kịp thời giúp nạn nhân – nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội – và người thân của họ cũng như cộng đồng và xã hội hiểu biết hơn, tin tưởng hơn vào chính sách, các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về phòng, chống mua bán người, các thủ đoạn của bọn tội phạm mua bán người, trên cơ sở đó nâng cao ý thức cảnh giác, biết cách tự phòng ngừa và chống lại tệ nạn mua bán người.
5.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
5.2.1. Tồn tại, hạn chế
- Về thể chế, qua rà soát hệ thống văn bản pháp luật về trợ giúp pháp lý và pháp luật về phòng, chống mua bán người thì thấy rằng hiện tại một số quy định chưa thật đồng bộ nên cần được nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Việc tiếp nhận nguồn thông tin về nhu cầu trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bị mua bán còn nhiều thách thức. Cụ thể: phần lớn nạn nhân bị mua bán là những người có khó khăn về kinh tế hoặc có nhu cầu thay đổi cuộc sống hoặc đang sinh sống ở những nơi có hoàn cảnh khó khăn, trình độ hiểu biết pháp luật và các thủ đoạn mua bán người còn hạn chế. Hơn nữa, do tâm lý mặc cảm, cam chịu, e ngại, xấu hổ, nỗi lo bị trả thù…nên nhiều người không tố cáo tội phạm và không kịp thời thông báo, thông tin đề nghị hỗ trợ, trợ giúp pháp lý.
- Việc xác định nạn nhân mua bán người thuộc diện khó khăn tài chính để xác định diện người trợ giúp pháp lý nhiều lúc gặp khó khăn do nạn nhân không có giấy tờ chứng minh hoặc không phối hợp cung cấp thông tin, giấy tờ. Đặc biệt trong thời gian bị ảnh hưởng thiên tai, dịch bệnh (như đại dịch Covid 19), việc điều tra, xác minh nạn nhân và thực hiện trợ giúp pháp lý hỗ trợ cho nạn nhân còn gặp nhiều khó khăn.
- Nhiều nạn nhân bị mua bán là phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật dễ bị ảnh hưởng tâm lý, thường lo lắng, sợ hãi. Vì vậy, việc giao tiếp, tiếp xúc thường phải có kỹ năng đặc biệt. Điều này đòi hỏi người thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện hỗ trợ, người tham gia tố tụng cần được trang bị kiến thức phù hợp.
Lê Thị Thanh Hà - Cục Trợ giúp pháp lý
[1] Điều 150 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[2] Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
[4]điểm c khoản 6 Phần III về phân công trách nhiệm.
[5]khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 10 quy định: “Trường hợp nhận được thông báo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì Trung tâm, Chi nhánh có trách nhiệm cử người thực hiện trợ giúp pháp lý trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo. Nếu vụ việc thuộc trường hợp thụ lý ngay thì Trung tâm, Chi nhánh cử ngay người thực hiện trợ giúp pháp lý cho người được trợ giúp pháp lý.
Trường hợp nhận được thông báo, thông tin của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì Trung tâm, Chi nhánh có trách nhiệm kiểm tra diện người được trợ giúp pháp lý đối với người bị buộc tội, người bị hại, đương sự, cử người thực hiện trợ giúp pháp lý nếu họ là người được trợ giúp pháp lý, thông tin lại cho cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chuyển đến biết nếu họ không thuộc diện được trợ giúp pháp lý hoặc không có yêu cầu trợ giúp pháp lý.”
[6]khoản 2 Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.