1. Khái niệm người được trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng phổ biến từ giữa thế kỷ 20, xuất phát từ tiếng Anh là “legal aid”. Theo Từ điển Anh - Việt của tác giả Lê Khả Kế, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1997 thì “legal aid” có nghĩa là “trợ cấp pháp lý”. Trong Từ điển pháp luật Anh - Việt, Nhà xuất bản Thế giới do Nguyễn Thành Minh chủ biên, 1998 thì “legal aid” trong cụm từ “legal aid schem” có nghĩa là “bảo trợ tư pháp”. Ngoài ra, trong một số tài liệu khác còn gọi là “hỗ trợ pháp luật”, “hỗ trợ pháp lý” hoặc “hỗ trợ tư pháp”.
Theo Đại Từ điển Tiếng Việt - Nguyễn Như Ý, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, 1999 thì “trợ giúp” là “sự giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ, giúp cho ai việc gì, đem cho ai cái gì đang lúc khó khăn, đang cần đến”. Từ điển Từ và ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh giải thích: trợ giúp là góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công. Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau về thuật ngữ này nhưng cụm từ “trợ giúp” có nghĩa chung nhất, bao hàm nội dung sự “giúp đỡ, bảo trợ, hỗ trợ”.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong các tài liệu khi bắt đầu nghiên cứu xây dựng Đề án về hoạt động TGPL ở Việt Nam. Đến năm 1996, thuật ngữ “trợ giúp pháp lý” được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997, thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách. Năm 2006, Luật TGPL đã có quy định chính thức về khái niệm TGPL: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật” (Điều 3).
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm về người được TGPL như sau: Người được TGPL là những người được thụ hưởng miễn phí dịch vụ pháp lý do Nhà nước cung cấp thông qua các hình thức, phương thức TGPL và trong những lĩnh vực pháp luật do pháp luật quy định.
2. Các quy định hiện hành về người được trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật Việt Nam
2.1. Phân loại
- Người nghèo được TGPL là người thuộc chuẩn nghèo theo quy định tại Điều 1 Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành chuẩn nghèo, hộ chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 - 2015 như sau: (i) Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống; (ii) Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống. Ở Việt Nam, người nghèo là một trong những đối tượng thuộc diện được TGPL miễn phí. Điều này là phù hợp với thực tế vì hiện nay, dù nước ta thoát nghèo, được xếp hạng là nước có thu nhập bình quân đầu người, nhưng tỷ lệ người nghèo vẫn có khá cao. Người nghèo chủ yếu sống ở các xã, huyện miền núi, địa lý cách biệt, điều kiện sống khó khăn, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở kém phát triển, tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xuyên. Trong khi đó, mạng lưới các dịch vụ pháp lý và số lượng các luật gia, luật sư chủ yếu tập trung ở các thành phố, thị xã, phí dịch vụ pháp lý còn cao (thậm chí là quá cao) so với người nghèo. Bởi vậy mà người nghèo rất cần sự TGPL miễn phí của Nhà nước.
- Người có công với cách mạng bao gồm: Người hoạt động cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng của liệt sĩ; con của liệt sĩ; người có công nuôi dưỡng liệt sĩ. Đây là những người đã có nhiều cống hiến về sức lực, tài năng, trí tuệ và cả tính mạng của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế trong thời chiến cũng như trong thời bình, được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật. Phần lớn những đối tượng này gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống do bị ảnh hưởng của thương tật, suy giảm sức khoẻ và khả năng lao động (thương binh, bệnh binh, người hưởng chính sách như thương binh), mất chỗ dựa chính trong gia đình (thân nhân liệt sĩ),… Chỉ một bộ phận nhỏ trong số họ có thu nhập tốt và ổn định. Với loại đối tượng này, chính sách TGPL của Nhà nước chủ yếu thể hiện sự ưu tiên, ưu đãi, sự biết ơn đối với những cống hiến của họ chứ không căn cứ vào điều kiện thu nhập.
- Người già cô đơn không nơi nương tựa: Việc xác định diện đối tượng này được áp dụng theo quy định của Pháp lệnh về người cao tuổi. Đây là những người từ 60 tuổi trở lên, sống một mình và không có người chăm sóc, phụng dưỡng. Thực tiễn hiện nay còn có tranh luận về người già sống tại các trại nuôi dưỡng của Nhà nước hoặc xã hội hoặc người già có con, cháu nhưng lại bị chính các con cháu chiếm đoạt tài sản. Những người này không được coi là người cô đơn, họ không thuộc diện nghèo nhưng thực tế không có tài sản. Đối với những trường hợp này, các tổ chức TGPL cần xem xét hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp để vận dụng linh hoạt.
- Người khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị giảm sút chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn; người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa.
- Trẻ em được TGPL sẽ được áp dụng theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đây là người dưới 16 tuổi, không có gia đình hoặc bị gia đình bỏ rơi, tự kiếm sống hoặc có hoàn cảnh không bình thường về thể chất hoặc tinh thần, không đủ điều kiện để thực hiện quyền cơ bản và hoà nhập với gia đình, cộng đồng.
- Người dân tộc thiểu số được TGPL là người thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật. Hàng năm, căn cứ vào điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế,... Chính phủ xác định các địa phương (tỉnh, huyện, xã) là vùng khó khăn và dành những ưu đãi nhất định (trong lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục,...). Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả nước, song lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo. Các dân tộc thiểu số sinh sống ở tất cả các vùng, miền của đất nước, nhưng tập trung phần lớn ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, bị cô lập về mặt địa lý, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các dịch vụ xã hội cơ bản. Thu nhập của đồng bào chủ yếu là từ sản xuất nông nghiệp, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Ngoài một số dân tộc có mặt bằng dân trí cao, mức sống khá như người Hoa (sống ở Thành phố Hồ Chí Minh), người Khơ-me (sống ở đồng bằng sông Cửu Long), người Chàm (sống ở một số tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ), còn lại các dân tộc thiểu số khác đều có trình độ dân trí thấp. Hầu hết các tộc người không có chữ viết riêng, phần đông không biết chữ quốc ngữ. Luật tục (tập quán pháp) giữ vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số. Chúng quy định các chuẩn mực ứng xử của con người, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng, gần như thay thế cho pháp luật của Nhà nước. Do không có điều kiện tiếp cận để tìm hiểu pháp luật của Nhà nước nên phần lớn đồng bào không biết, không hiểu luật, từ đó không phân biệt được ranh giới giữa các hành vi phù hợp với pháp luật và hành vi vi phạm pháp luật, dẫn đến dễ phạm luật. Khi quyền lợi bị xâm phạm, họ không đủ kiến thức để tự bảo vệ mình, cũng không có điều kiện đến các cơ quan chính quyền hay cơ quan pháp luật để khiếu nại hoặc nhờ giúp đỡ. Quy định quyền được TGPL của nhóm đối tượng này giúp họ có điều kiện để tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí.
- Nạn nhân của tội phạm mua bán người là những người bị xâm hại bởi hành vi quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 3 của Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011, cụ thể như sau:
“1. Mua bán người theo quy định tại Điều 119 và Điều 120 của Bộ luật hình sự.
2. Chuyển giao hoặc tiếp nhận người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác.
3. Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người để bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy các bộ phận cơ thể hoặc vì mục đích vô nhân đạo khác hoặc để thực hiện hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”
- Các đối tượng khác được TGPL theo quy định tại điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Hiện Việt Nam đã ký Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước: Cu ba, Bungari, Hungari, Ba Lan, Lào, Nga, Trung Quốc, Pháp, Ucraina, Mông Cổ, Bêlarút. Công dân của các nước này cũng có thể được xem xét hưởng TGPL miễn phí nếu họ đang ở Việt Nam.
- Một số đối tượng được TGPL theo Dự án. Trước đây, trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, giai đoạn 2005 - 2009” đồng tài trợ bởi Tổ chức phát triển quốc tế Thụy Điển (Sida), Tổ chức Oxfam Novib Hà Lan, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Thụy Sỹ (SDC), và tổ chức Cứu trợ trẻ em Thụy Điển (SCS), các nhóm đối tượng sau đây cũng được hưởng TGPL miễn phí theo Dự án:
- Người chưa thành niên (dưới 18 tuổi);
- Phụ nữ là nạn nhân của tội buôn bán người;
- Phụ nữ là nạn nhân của bạo lực gia đình;
- Người nhiễm HIV/AIDS;
- Người mới ra tù tái hòa nhập với xã hội.
2. Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về người được trợ giúp pháp lý
2.1. Ưu điểm
- Có thể khẳng định, hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn Luật TGPL đã được ban hành theo đúng tiến độ và bảo đảm cho Luật đi vào cuộc sống theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 35/2006/CT-TTg. Hệ thống pháp luật TGPL nói chung, các quy định pháp luật về người được TGPL nói riêng đã cơ bản hoàn thiện, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi, điều chỉnh khá toàn diện các vấn đề phát sinh về người được TGPL.
- Chế định về người được TGPL là công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người nghèo, đối tượng chính sách và các đối tượng yếu thế khác mà còn góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ pháp chế, đưa pháp luật đến với người dân, tạo lập thói quen và nếp sống làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
- Chế định về người được TGPL phù hợp với chính sách xoá đói, giảm nghèo, đền ơn, đáp nghĩa, chính sách dân tộc và quan điểm về bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng và Nhà nước.
2.2. Hạn chế, bất cập
Đối tượng là người nghèo
Hiện nay, đối tượng được TGPL còn gây nhiều tranh cãi do chuẩn nghèo thường xuyên thay đổi, danh sách hộ nghèo cũng thay đổi, việc cấp giấy chứng nhận hộ nghèo ở các địa phương thực hiện chưa nghiêm túc. Ngoài ra, Luật cũng chưa có những quy định mở rộng cho những đối tượng có thu nhập thấp, hộ cận nghèo, thoát nghèo hoặc những người thất nghiệp, vô gia cư...
Người bị nhiễm HIV không có nơi nương tựa
Phần lớn những người nhiễm HIV/AIDS có trình độ học vấn thấp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn. Trong suốt quá trình mang vi rút, người có HIV thường phải trải qua những biến động bất lợi về tâm lý như: sợ hãi và long lắng; cô đơn, mặc cảm, tự kỳ thị, buồn bã, trầm uất…Vì vậy, khi có vướng mắc về pháp luật liên quan đến bản thân, họ thường rơi vào trạng thái bế tắc, không biết bảo vệ mình như thế nào khi bị xâm phạm quyền. Nhóm đối tượng này chưa được quy định rõ là người được TGPL trong Luật TGPL mà chỉ được hướng dẫn thông qua Nghị định 07/2007/NĐ-CP thông qua việc sắp xếp đối tượng này vào nhóm đối tượng người khuyết tật. Bên cạnh đó, pháp luật về người nhiễm HIV/AIDS quy định việc người nhiễm HIV/AIDS được quyền giữ bí mật các thông tin cá nhân và nghiêm cấm việc công khai, tiết lộ các thông tin về họ nên việc xác định đối tượng và TGPL cho họ của các Trung tâm còn gặp khó khăn.
Người bị nhiễm chất độc hóa học
Khoản 1 Điều 26 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng quy định: Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hoá học, bị mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất độc hoá học. Tuy nhiên, Luật TGPL không quy định cụ thể là người bị nhiễm chất độc hóa học trong thời kỳ kháng chiến hay trong thời gian nào. Bởi vì, hiện nay, tuy chiến tranh đã lùi xa, nhưng nhiều người công tác trong những ngành, lĩnh vực độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe, họ cũng bị nhiễm chất độc hóa học trong sản xuất, lao động thì họ có được coi là đối tượng được TGPL hay không.
Trẻ em là được TGPL là người dưới 16 tuổi và không có nơi nương tựa
Thứ nhất, trẻ em không có nơi nương tựa: Luật TGPL chỉ thừa nhận quyền được TGPL cho đối tượng là trẻ em không nơi nương tựa, chứ không phải là trẻ em nói chung. Trong khi đó, pháp luật quốc tế quy định rằng, trẻ em là đối tượng đặc biệt cần phải được bảo vệ và có quyền được tiếp cận tư pháp và TGPL miễn phí. Điều 40 (khoản b, đoạn ii) của Công ước quốc tế về quyền trẻ em cũng khẳng định, bất cứ trẻ em nào bị khởi tố là đã vi phạm pháp luật hình sự đều có quyền được trợ giúp về pháp lý hoặc sự trợ giúp thích hợp khác cho sự biện hộ của mình. Điều 14 (khoản 3, đoạn d) của Công ước quốc tế về quyền dân sự - chính trị quy định trong quá trình xét xử với một tội hình sự, mỗi người đều có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình lựa chọn, được nhận sự TGPL mà người ấy không phải trả tiền nếu không có đủ điều kiện chi trả
Thứ hai, về độ tuổi của trẻ em: Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định không thống nhất về độ tuổi người chưa thành niên được hưởng TGPL so với Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự. Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi. Bộ luật Hình sự, Tố tụng hình sự còn có thêm khái niệm về người chưa thành niên và dành hẳn một chương riêng quy định tư pháp dành cho người chưa thành niên và những mức quy định khác về độ tuổi bị cáo, người bị hại là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khiến cho những quy định trong việc bảo đảm quyền của trẻ em, người chưa thành niên chưa thống nhất.
Người dân tộc thiểu số
Luật quy định người dân tộc thiểu số được TGPL khi họ là người thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Điều 2 của Thông tư 01/2012/TTLT-BTP-UBDT Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp và Ủy ban dân tộc ngày 17/01/2012 hướng dẫn thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số quy định người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn là người đã đăng ký thường trú, đã đăng ký tạm trú hoặc có xác nhận của Công an xã, phường, thị trấn ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (xã, phường, thị trấn thuộc vùng khó khăn và xã, thôn, bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn) theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, nhiều trường hợp, người dân tộc thiểu số sinh sống lâu dài ở vùng không phải là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhưng hộ khẩu thường trú của họ vẫn ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, dẫn đến sự nhầm lẫn khi xác định đối tượng được TGPL cho những người này. Mặt khác, rất nhiều người sinh sống, làm việc ở vùng đặc biệt khó khăn trong một thời gian dài, đã đăng ký tạm trú, thậm chí có người đã đăng ký thường trú (ví dụ như những giáo viên, cán bộ y tế, bộ đội biên phòng,…) nhưng vì họ không phải là người dân tộc thiểu số nên cũng không được TGPL.
Về người được TGPL theo Điều ước quốc tế hoặc Thỏa thuận quốc tế
Điều 1, Nghị định 14/2013/NĐ-CP quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn đối tượng được TGPL theo Điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Quyền tiếp cận tư pháp nói chung và tiếp cận TGPL nói riêng được quy định tại một số công ước mà Việt Nam đã phê chuẩn như: Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị năm 1966, Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và Công ước quốc tế về quyền trẻ em. Nhưng hiện nay, những văn bản hướng dẫn về đối tượng này còn hạn chế, do đó, quyền được TGPL của một số đối tượng vẫn còn bị “bỏ ngỏ”.
Đối tượng được TGPL hiện nay chưa bao hàm những người cũng được coi là yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội và chiếm số lượng khá lớn
Nạn nhân bạo lực gia đình: Đây là đối tượng được TGPL trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, 2005 - 2009”. Ngày 31/3/2011, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 07/2011TT-BTP hướng dẫn bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động TGPL. Theo đó, Điều 12 Thông tư quy định phụ nữ là nạn nhân bạo lực gia đình được TGPL. Sau 02 năm áp dụng Thông tư, có rất nhiều ý kiến trái chiều cho rằng đối tượng được TGPL trong Thông tư mâu thuẫn với quy định của Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành khác. Vì vậy, ngày 17/4/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 11/TT-BTP quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong TGPL để thay thế Thông tư số 07/2011/TT-BTP. Nội dung của Thông tư không mở rộng đối tượng, phạm vi, lĩnh vực TGPL mà chỉ quy định các biện pháp hỗ trợ và bảo vệ người được TGPL là người mẹ, trẻ em gái, nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân bị xâm hại tình dục, nạn nhân bị mua bán. Đối tượng nạn nhân bạo lực gia đình được TGPL đã bị thu hẹp (chỉ khi họ thuộc diện người được TGPL theo quy định của Điều 10 Luật TGPL và Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP và Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP thì họ mới được TGPL).
3. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về người được trợ giúp pháp lý
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn về người được TGPL là người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện - kinh tế đặc biệt khó khăn, trong đó quy định cụ thể thế nào là “thường xuyên sinh sống”, đồng thời bổ sung đối tượng người được TGPL không phải là người dân tộc thiểu số nhưng thường xuyên sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
Thứ hai, người được TGPL là người bị nhiễm chất độc hóa học tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP cần quy định cụ thể người đó nhiễm chất độc trong giai đoạn nào, chất độc hóa học loại gì; sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng người bị nhiễm HIV tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP theo hướng những người này kể cả là người có nơi nương tựa thì họ cũng vẫn được quyền hưởng dịch vụ TGPL miễn phí của Nhà nước.
Thứ ba, nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thay đổi theo hướng nâng độ tuổi của trẻ em là người dưới 18 tuổi như Công ước quốc tế.
Thứ tư, nghiên cứu làm rõ cụm từ “không nơi nương tựa” quy định tại khoản 3 Điều 10 Luật TGPL, khoản 3 Điều 2 Nghị định 07/2007/NĐ-CP, khoản 1, khoản 3, khoản 4 Điều 1 Nghị định 14/2013/NĐ-CP.
Thứ năm, ban hành văn bản hướng dẫn thế nào là người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất để bảo đảm những người này không chỉ được TGPL trong tố tụng hình sự mà còn trong các lĩnh vực pháp luật khác.
Thứ sáu, nghiên cứu mở rộng đối tượng được TGPL miễn phí, cụ thể như sau:
- Người bị bắt, tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự: Ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm quyền tiếp cận công lý và quyền cơ bản của con người. Tại khoản 4 Điều 31 Chương II Hiến pháp về quyền con người và quyền công dân quy định: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”. Như vậy, tinh thần của Hiến pháp là “quyền bào chữa” là một trong những quyền cơ bản của công dân. Về phương diện quốc tế, ngày 20/12/2012, Đại hội đồng Liên Hợp quốc đã đưa ra tuyên bố về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự. Theo đó, Nhà nước vần bảo đảm tất cả những người bị bắt, bị tạm giữ, bị tình nghi hoặc vi phạm pháp luật hình sự bị phạt tù có thời hạn hoặc bị kết án tử hình đều có quyền được TGPL ở tất cả các giai đoạn của tư pháp hình sự. Trong bối cảnh Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì quyền tiếp cận TGPL cũng cần được coi là quyền cơ bản của công dân, bảo đảm bất kỳ người nào không phân biệt giàu hay nghèo đều có quyền có luật sư bào chữa trong phiên tòa hình sự để được hưởng một phiên tòa công bằng. Do đó, Luật TGPL cần bổ sung đối tượng được TGPL là người bị bắt, tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự nếu có yêu cầu TGPL thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chỉ định Luật sư hoặc Trợ giúp viên pháp lý bào chữa miễn phí cho họ.
- Nạn nhân bạo lực gia đình: Theo Báo cáo “Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ ở Việt Nam” đã cho thấy, gia đình không phải lúc nào cũng là một môi trường sống an toàn tại Việt Nam bởi vì phụ nữ phải đối mặt với những nguy cơ bị bạo lực do chồng hoặc các thành viên khác trong gia đình hoặc một người nào khác gây ra. Bạo lực gia đình ảnh hưởng tới phụ nữ và diễn ra khắp nơi trên toàn quốc ở các nhóm đối tượng khác nhau về đặc điểm xã hội và chủng tộc, đồng thời nó đã trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng tới trẻ em thông qua những gì mà chúng chứng kiến trong gia đình. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng bạo lực đối với phụ nữ có một tác động sâu hơn so với những tác hại tức thì và dễ nhận biết. Nó gây tác động đáng kể đối với sức khỏe thể chất và tâm thần của người phụ nữ, ảnh hưởng tới năng suất lao động của các thành viên trong gia đình và vấn đề giáo dục, chăm lo sức khỏe cho con cái. Bạo lực đối với phụ nữ cũng làm phát sinh những chi phí mà cộng đồng và quốc gia phải gánh chịu.
Bạo lực gia đình, đặc biệt là đối với phụ nữ được Chính phủ nhìn nhận như là một vấn đề nghiêm trọng tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ thông qua việc phê chuẩn một số hiệp định quốc tế cơ bản về quyền con người, bao gồm cả gồm cả những hiệp định về quyền dân sự và chính trị (ICCPR), kinh tế, văn hóa và xã hội (ICESCR), phân biệt chủng tộc (CERD), bình đẳng giới (CEDAW) và quyền trẻ em (CRC).
Tuy nhiên, nhiều nạn nhân bạo lực gia đình chưa được tiếp cận với chính sách TGPL miễn phí của nhà nước do không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về TGPL. Điều này cho thấy việc TGPL cho nạn nhân của bạo lực gia đình đã trở thành yêu cầu cấp bách để bảo vệ quyền lợi của cá nhân và sự ổn định của gia đình, xã hội. Do vậy, trong thời gian tới các văn bản pháp luật về TGPL cần quy định bổ sung nạn nhân bạo lực gia đình là người được TGPL.
- Trẻ em: Để bảo vệ quyền lợi cho đối tượng TGPL là trẻ em, trên cơ sở vận dụng Điều 10 Nghị định số 07/2007/NĐ-CP, Chỉ thị số 1408/CT ngày 01/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 267/QĐ-TTg ngày 22/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ, ngày 21/6/2011 Cục Trợ giúp pháp lý đã ban hành Công văn số 201/CTGPL-NV hướng dẫn diện đối tượng TGPL là trẻ em. Theo đó, trẻ em và người chưa thành niên dưới 18 tuổi được TGPL để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong trường hợp trẻ em và người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bị hại hoặc có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Tiếp đó, ngày 20/5/2011, Bộ Tư pháp có Công văn số 2910/BTP-TGPL gửi Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố yêu cầu đảm bảo mọi trường hợp trẻ em có vướng mắc pháp luật (bị vi phạm quyền trẻ em, bị xâm hại tình dục, bị lạm dụng sức lao động, bị bạo hành…) đều được tiếp cận và được TGPL với hình thức phù hợp, bảo đảm chất lượng tốt nhất.
Mặc dù Cục TGPL, Bộ Tư pháp đã có văn bản hướng dẫn như trên và các Trung tâm cũng đã chủ động TGPL cho diện đối tượng này nhưng do Luật TGPL hạn chế về mặt đối tượng nên có Trung tâm còn gặp khó khăn khi cử Trợ giúp viên pháp lý, Luật sư - cộng tác viên tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho trẻ em. Do vậy, các vụ việc TGPL cho trẻ em còn hạn chế, quyền lợi của các em chưa được đảm bảo. Để khắc phục tình trạng này, khi sửa đổi, bổ sung Luật TGPL đề nghị sửa đổi diện đối tượng TGPL là trẻ em. Đảm bảo mọi trẻ em (là người dưới 18 tuổi) có vướng mắc pháp luật đều được hưởng TGPL miễn phí của Nhà nước.
Phòng Quản lý chất lượng
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2011), Thông tư số 07/2011/TT-BTP ngày 31/3/2011 hướng dẫn về bảo đảm bình đẳng giới trong tổ chức cán bộ và hoạt động trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2014), Thông tư số 11/2014/TT-BTP ngày 17/4/2014 quy định về bảo đảm bình đằng giới trong trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2011), Công văn số 2910/BTP-TGPL ngày 20/5/2011 về trợ pháp lý cho trẻ em, Hà Nội.
- Chính phủ (2007), Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/1/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
- Chính phủ (2013), Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/1/2007 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
- Cục Trợ giúp pháp lý - Bộ Tư pháp (2008), “10 năm hoạt động TGPL ở Việt Nam, hướng phát triển".
- Cục Trợ giúp pháp lý – Bộ Tư pháp (2009), “Giới thiệu các tiêu chuẩn quốc tế về trợ giúp pháp lý và hệ thống trợ giúp pháp lý của một số nước”.
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Phạm Quang Đại (2011), Luận văn thạc sĩ luật học, Chất lượng hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam, Hà Nội.
- Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
- Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hà Nội.
- Quốc hội (2006), Luật Trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
- Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
- Tổng cục thống kê (2010), Báo cáo nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình với phụ nữ ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- Ts. Hà Hùng Cường, Một số vấn đề về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách.
- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh Trợ giúp pháp lý”.