Kết quả 10 năm xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý (2005 – 2015) và định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật giai đoạn 2016 - 2020

28/07/2015
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

Năm 2005, trước thực trạng hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48) nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém đó. Nghị quyết số 48 là văn kiện chính trị quan trọng của Đảng định hướng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết đã xác định cụ thể những quan điểm chỉ đạo, đề ra các định hướng lớn và những giải pháp cơ bản cho hoạt động xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực thi pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Với mục tiêu “xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, góp phần đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, qua 10 năm triển khai thực hiện Nghị quyết, đến nay công tác lập pháp của nước ta đã có nhiều tiến bộ và chuyển biến cơ bản; hệ thống pháp luật Việt Nam từng bước được hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Trong đó, phải kể đến vai trò của Bộ Tư pháp, mà trước hết là trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuộc thẩm quyền của mình. Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp, ra đời từ năm 1997 và đã có những thành tích đáng kể trong công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Kết quả trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực TGPL giai đoạn 2005 – 2015:
Kết quả đạt được:
Trong công tác TGPL, Nghị quyết đã đưa ra những định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật như sau: “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư pháp theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp; thực hiện xã hội hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp; kết hợp quản lý nhà nước với tự quản của các tổ chức xã hội nghề nghiệp”; “hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”. Đồng thời, đưa ra giải pháp“đẩy mạnh hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối tượng chính sách theo hướng xã hội hoá”.
Nhằm thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn đường lối và chính sách của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp đỡ pháp luật cho nhân dân theo tinh thần, nội dung nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, X và các Nghị quyết của Bộ Chính trị, trong đó có Nghị quyết số 48, ngày 29/6/2006 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật TGPL. Việc Quốc hội thể chế hóa chính sách cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo của Đảng bằng một văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Luật TGPL đã tạo ra sự đột phá lớn về mặt thể chế, nâng tầm từ 01 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ lên thành Luật mà không cần qua bước Nghị định, Pháp lệnh. Điều đó khẳng định sự nhìn nhận, đánh giá cao của Quốc hội đối với những thành tựu công tác TGPL đã đạt được. Để đạt được kết quả đó, từ năm 2005 Cục TGPL đã nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng về mặt lý luận và thực tiễn, trong và ngoài nước về các vấn đề tổ chức và hoạt động TGPL.
Để triển khai Luật TGPL, trong phạm vi thẩm quyền được giao, từ năm 2006 đến nay Cục TGPL đã nghiên cứu, xây dựng và tham mưu Bộ ban hành, trình cấp có thẩm quyền 45 văn bản, trong đó có 03 Nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 01 Chỉ thị và 06 Quyết định.
Đồng thời, để triển khai thực hiện Luật TGPL, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành có liên quan trong công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp lý hướng dẫn, triển khai và tổ chức thực hiện Luật. Kết quả là đã có 11 Thông tư liên tịch được ban hành để hướng dẫn các nội dung thực hiện TGPL trong hoạt động tố tụng; trong việc giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính; hướng dẫn về tổ chức bộ máy và kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan TGPL nhà nước; thực hiện TGPL cho đồng bào dân tộc thiểu số…
Về việc xây dựng Thông tư, Bộ Tư pháp đã đề xuất Bộ Tài chính ban hành 02 Thông tư, Bộ Nội vụ ban hành 01 Thông tư và ban hành theo thẩm quyền 12 Thông tư, 10 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp để hướng dẫn thi hành Luật TGPL. Bộ Tư pháp cũng đã đề xuất sửa đổi, bổ sung vấn đề TGPL trong một số văn bản pháp luật có liên quan như: Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tố tụng Hành chính, Luật Khiếu nại, Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng quy định rõ chức danh Trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật; bổ sung quyền được TGPL trong Luật Phòng, chống mua bán người, Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật.
Mặt khác, TGPL đã được khẳng định là một chính sách “giảm nghèo về pháp luật” trong tổng thể các chính sách về giảm nghèo của Đảng và Nhà nước, Cục TGPL cũng đã tham mưu Lãnh đạo Bộ đề xuất chính sách TGPL trong các chương trình giảm nghèo như Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2006 - 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 theo Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của Chính phủ.
Trong giai đoạn năm 2005 – 2015, việc xây dựng Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời để đưa Luật vào cuộc sống nhìn chung đã thể chế hóa quan điểm chủ trương của Nghị quyết số 48. Tuy nhiên, trước những hạn chế, vướng mắc, bất cập, tồn tại trong công tác TGPL do sự thay đổi trong thể chế và bối cảnh kinh tế - xã hội liên quan đến công tác TGPL, để triển khai có hiệu quả định hướng và giải pháp về TGPL của Nghị quyết số 48, ngày 01/6/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới công tác TGPL giai đoạn 2015 – 2025 theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa với lộ trình phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, khu vực tiến tới sau năm 2025 người thực hiện TGPL là luật sư hành nghề, bảo đảm cho các đối tượng thuộc diện được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời, có chất lượng; chuyển các Trung tâm TGPL nhà nước theo hướng từ việc chủ yếu cung cấp dịch vụ TGPL hiện nay thành cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về TGPL, tinh giản tổ chức, bộ máy và biên chế; cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL của Nhà nước. Sự ra đời của Đề án đã tạo cơ sở pháp lý cho việc đổi mới công tác TGPL trong thời gian tới; đưa ra những giải pháp trong công tác TGPL nhằm mang lại lợi ích cho Nhà nước, xã hội và trực tiếp là đối tượng được thụ hưởng dịch vụ TGPL, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Nhìn chung, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về TGPL đã tuân thủ theo các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn, chất lượng soạn thảo cơ bản đáp ứng yêu cầu. Bên cạnh đó, hàng năm Cục TGPL cũng còn tham gia thẩm định, góp ý các dự thảo văn bản, đề án có liên quan đến TGPL thuộc thẩm quyền ban hành của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ, ngành và các đơn vị thuộc Bộ. Các văn bản góp ý được đơn vị trong và ngoài Bộ đánh giá cao, nhiều đề xuất, góp ý của Cục đã được đơn vị lấy ý kiến tiếp thu, chỉnh sửa.
Như vậy, với những kết quả đạt được trong giai đoạn 2005 – 2015, có thể khẳng định, TGPL là một trong số các lĩnh vực có hệ thống văn bản pháp luật hướng dẫn Luật được ban hành khá đầy đủ (từ Nghị định, Thông tư liên tịch, Thông tư, Quyết định đến Quy chế, Điều lệ) theo đúng tiến độ để bảo đảm Luật TGPL được kịp thời triển khai trong thực tiễn. Hệ thống văn bản pháp luật đó đã phát huy hiệu lực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được TGPL trên thực tế, đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động TGPL, góp phần hoàn thiện pháp luật thuộc thẩm quyền Bộ Tư pháp. Chính những văn bản pháp luật được ban hành đã tạo hành lang pháp lý để tổ chức TGPL, người thực hiện TGPL thực hiện việc cung ứng dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL, giúp họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Sau 08 năm triển khai thi hành Luật TGPL, cho đến hết năm 2014, trong cả nước đã thực hiện 940.183 vụ việc TGPl cho 987.949 lượt người; qua đó, từng bước nâng cao ý thức pháp luật của người dân, góp phần hạn chế, phòng ngừa các vi phạm pháp luật, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, giữ đoàn kết cộng đồng, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hạn chế, tồn tại, bất cập:
Có thể nói, thể chế là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động TGPL. Mặc dù hệ thống pháp luật TGPL đã tương đối đầy đủ nhưng chưa theo kịp sự phát triển kinh tế, xã hội; chưa đáp ứng với yêu cầu TGPL của người dân và tiến trình cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Chính sách TGPL hiện nay còn một số bất cập, chưa thống nhất và đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp thời, chưa bám sát thực tiễn dẫn đến một số quy định chưa khả thi. Một số chế định của Luật và các văn bản hướng dẫn không còn phù hợp, chưa cụ thể hoặc còn thiếu những quy định quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của công tác TGPL.
Hơn nữa, việc triển khai các quy định của pháp luật TGPL còn nhiều bất cập do các nguyên nhân chủ quan và khách quan, dẫn đến hoạt động TGPL chưa thực sự hiệu quả như Đề án quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008; Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 678/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ có nhiều mục tiêu, chỉ tiêu phù hợp trong giai đoạn đầu triển khai thi hành Luật TGPL khi đội ngũ luật sư còn chưa phát triển, nhưng đến nay một số mục tiêu, chỉ tiêu không còn phù hợp (các chỉ tiêu về Chi nhánh của Trung tâm TGPL nhà nước, Câu lạc bộ TGPL, cộng tác viên TGPL, Trợ giúp viên pháp lý...).
Trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuộc thẩm quyền của Bộ Tư pháp trong lĩnh vực TGPL mặc dù được quan tâm, chú trọng, tuy nhiên tiến độ soạn thảo, trình ban hành một số văn bản, đề án còn chậm; sự phối hợp trong xây dựng, lấy ý kiến góp ý, thẩm định văn bản với các cơ quan, tổ chức khác còn nhiều bất cập, gây ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiến độ ban hành (nhất là những văn bản liên tịch) và chất lượng văn bản.
Định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về TGPL giai đoạn 2016 – 2020:
Để tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, triển khai các giải pháp đổi mới nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế để đưa công tác TGPL phát triển ổn định và bền vững, trong thời gian tới công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực TGPL có ý nghĩa rất quan trọng. Với tinh thần thực hiện việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xã hội hóa hoạt động TGPL theo bước đi và lộ trình phù hợp, phát huy vai trò của TGPL trong đời sống xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp đã được xác định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp. Đồng thời, trong giai đoạn này cần tập trung nguồn lực để tiếp tục cụ thể hóa tinh thần và nội dung các quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,... Do đó, Cục TGPL với tư cách là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong công tác này, ở giai đoạn 2016 – 2020 đã xác định những định hướng, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về TGPL như sau:
- Hoàn thiện pháp luật về TGPL, trong đó tập trung nguồn lực nghiên cứu, xây dựng Luật TGPL (sửa đổi) theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016 vừa được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII (dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV). Đồng thời, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện Kế hoạch và các văn bản triển khai thi hành Luật TGPL (sửa đổi) và nghiên cứu, xây dựng trình ban hành Chiến lược phát triển TGPL (sửa đổi) cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Theo đó, nghiên cứu, xây dựng Luật TGPL (sửa đổi) theo hướng lấy người được TGPL làm trung tâm, bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL trước pháp luật và tiếp cận công lý, tránh bỏ sót đối tượng được TGPL khi họ cần TGPL, cụ thể nghiên cứu một số định hướng sau đây:
+ Đảm bảo chất lượng dịch vụ TGPL tương đương dịch vụ pháp lý trong thị trường dịch vụ pháp lý, quy định người thực hiện TGPL là Trợ giúp viên pháp lý và luật sư, có lộ trình chuyển đổi Trợ giúp viên pháp lý sang luật sư, nâng cao năng lực cho đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý, bảo đảm sau năm 2025 người thực hiện TGPL là luật sư. Trợ giúp viên pháp lý đã tham gia tố tụng đạt chỉ tiêu vụ việc được giao hàng năm và bảo đảm chất lượng được chuyển đổi sang luật sư (nếu có nguyện vọng) mà không phải qua đào tạo và tập sự hành nghề luật sư. Nhà nước ký hợp đồng thường xuyên với luật sư (luật sư công thực hiện TGPL) hoặc hợp đồng vụ việc với luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ TGPL. Đối với các trường hợp người không phải là luật sư được thực hiện TGPL, quy định tiêu chuẩn, điều kiện và chế độ đào tạo bồi dưỡng cho đối tượng này, bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL. Có cơ chế lựa chọn luật sư giỏi, có kinh nghiệm, tổ chức hành nghề luật sư có uy tín thực hiện TGPL và giám sát, kiểm soát, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL.
Mở rộng người được TGPL là người thuộc hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo; nạn nhân bạo lực gia đình, người bị nhiễm HIV, trẻ em dưới 18 tuổi, những trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa.
Bảo đảm tính độc lập của hệ thống TGPL và người thực hiện TGPL, xây dựng theo hướng thiết lập hệ thống TGPL từ Trung ương đến địa phương bảo đảm tính khách quan, độc lập trong việc thực hiện TGPL; dịch vụ TGPL của Nhà nước do tổ chức hành nghề luật sư và luật sư thực hiện.
Sửa đổi về trình tự, thủ tục thực hiện TGPL theo hướng đơn giản hóa thủ tục, giảm bớt khâu trung gian để tạo thuận lợi cho người được TGPL tiếp cận và hưởng dịch vụ TGPL; ứng dụng công nghệ thông tin nhằm giảm bớt thủ tục, giấy tờ ở những địa phương có điều kiện tin học hóa.
+ Về loại hình TGPL do Nhà nước trả tiền tập trung thực hiện vụ việc TGPL trong lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính; cung cấp dịch vụ đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật tại trụ sở, tư vấn pháp luật tiền tố tụng.
Quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của người thực hiện TGPL nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL (trong tiếp nhận vụ việc, thực hiện vụ việc TGPL). 
+ Đẩy mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa công tác TGPL theo hướng quy định các chế độ, chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút các tổ chức hành nghề luật sư, luật sư có uy tín, kinh nghiệm thực hiện TGPL. Khuyến khích các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, chính trị xã hội thực hiện TGPL miễn phí (probono).
+ Về quản lý công tác TGPL, cần quy định bổ sung chức năng điều phối nguồn lực bảo đảm cho hoạt động TGPL của Nhà nước hiệu quả, bền vững; giám sát và kiểm soát chất lượng dịch vụ TGPL.
+ Về ngân sách cho hoạt động TGPL, cần quy định rõ nguồn tài chính dành cho hoạt động TGPL. Xây dựng cơ chế kinh phí phù hợp với đặc thù là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí.
- Thực hiện rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về TGPL và các văn bản có liên quan đến TGPL để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật./.
- Thanh Trịnh -

Xem thêm »