Xác định tội danh có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là căn cứ để áp dụng hình phạt một cách công bằng, chính xác, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người và mang lại hiệu quả trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử nhiều vụ án hình sự cho thấy vẫn còn những khó khăn, vướng mắc trong vấn đề xác định tội danh và khung hình phạt, nhất là đối với những vụ án mà hành vi phạm tội của bị can, bị cáo không thể hiện các yếu tố cấu thành tội phạm một cách đặc trưng, rõ ràng. Trên phương diện nghiên cứu và là người tham gia bào chữa trong nhiều phiên tòa hình sự, tôi xin nêu một vụ án cụ thể để bạn đọc cùng phân tích.
Tóm tắt nội dung vụ án:
Khoảng giữa tháng 9/2013, Nguyễn Văn A và một số người dân xã T, huyện K đã cùng nhau góp công sức xây bức tường bao bằng gạch ba banh nhằm mục đích không để trẻ em bị ngã xuống ao rìa đường thôn. Tuy nhiên, khi nghe tin Phạm Văn H đang phá đoạn tường bao này, A đã đi bộ ra chỗ tường bao bị phá và chửi mắng anh H. Đang bức xúc nên sau khi bị Anh H chửi lại và tiếp tục đạp vào tường bao thì Nguyễn Văn A đã xông vào dùng chân, tay đánh nhau với anh H. Trong lúc cả hai đang “thượng cẳng chân, hạ cẳng tay” thì Nguyễn Văn Đ (là con trai của A) vì bênh bố nên đã lao vào dùng tay đấm vào mặt và đầu anh H. Tiếp đó, Đ còn nhặt 01 viên đá có kích thước 5cm x 7cm chiều cao 6 cm đập một nhát vào phía sau đầu anh H. Thấy anh H ngã ngửa ra đường, đầu chảy máu thì hai bố con Nguyễn Văn A bỏ chạy về nhà. Anh H sau đó được đưa đi bệnh viện cấp cứu nhưng không qua khỏi. Tại Bản kết luận giám định pháp y đã xác định nguyên nhân chết của anh Phạm Văn H là do sốc chấn thương sọ não. Vết dập rách da đầu vùng đỉnh – chẩm phải do vật tày cứng, có bề mặt hoặc cạnh không phẳng tác động. Bản kết luận điều tra của Công an xác định: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn Đ đồng phạm tội giết người theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS. Tuy nhiên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân chỉ truy tố các bị cáo về tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS.
Sau khi vụ án xảy ra có nhiều quan điểm khác nhau về việc định tội danh cũng như điều khoản áp dụng đối với Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn Đ, cụ thể như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn Đ đồng phạm tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS, bởi lẽ: mặc dù không có sự bàn bạc từ trước nhưng Đ và A đã tiếp nhận ý chí của nhau, cùng nhau dùng chân, tay đấm, đá anh H. Nguyễn Văn Đ là người trực tiếp dùng viên đá đập vào đầu gây ra cái chết của anh H. Do đó, cả A và Đ đồng phạm tội giết người với vai trò là người thực hành. Về tình tiết định khung: Do người bị hại cũng có lỗi một phần nên hành vi phạm tội của A và Đ không mang tính chất côn đồ theo tình tiết định khung tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS mà các bị cáo chỉ phải chịu TNHS theo khoản 2 Điều 93 BLHS.
Quan điểm thứ hai, Nguyễn Văn A không đồng phạm giết người với Nguyễn Văn Đ vì khi A đang dùng chân tay đánh nhau với anh H thì Đ cũng xông vào đấm, đá. Lúc đó, mặc dù A không có hành vi ngăn cản Đ nhưng cũng không có nghĩa rằng A đã thống nhất ý chí cùng với Đ để tước đoạt tính mạng của anh H. Bởi lẽ, theo lời khai của A thì khi xảy ra cãi vã, A có dùng chân tay đấm, đá anh H nhưng chỉ để đe dọa và ngăn chặn không cho anh H phá tường bao chứ không nhằm mục đích cố tình tước đoạt tính mạng của anh H. Hành vi cãi vã, xô xát của A chưa gây ra thương tích gì cho anh H nên chỉ có thể bị truy cứu về tội gây rối trật tự công cộng.
Quan điểm thứ ba, Nguyễn Văn Đ phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người, Nguyễn Văn A phạm tội gây rối trật tự công cộng. Bởi lẽ: Với hành vi phạm tội của Nguyễn Văn Đ : khi đập viên đá vào đầu anh H thì bị cáo hoàn toàn không có ý thức chủ quan muốn tước đoạt tính mạng của anh H mà chỉ nhằm mục đích ngăn chặn không cho anh H tấn công bố mình nữa. Hơn nữa viên đá bị cáo dùng tấn công người bị hại chỉ có kích thước 5cm x 7cm không phải là viên đá to, do đó bản thân bị cáo không hề nghĩ rằng nó lại có thể gây thương tích nặng như vậy. Do đó bị cáo chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội cố ý gây thương tích dẫn đến hậu quả chết người. Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn A: như đã phân tích ở quan điểm thứ hai, hành vi của A không nhằm mục đích gây thương tích hay tước đoạt tính mạng của anh H và thực tế hành vi của A cũng chưa hề gây ra thương tích gì cho anh H. Do đó Nguyễn Văn A chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm về tội gây rối trật tự công cộng.
Tác giả cho rằng, Nguyễn Văn A không đồng phạm tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS. Bởi lẽ, Đồng phạm là một khái niệm pháp lý nói lên quy mô tội phạm, được thể hiện trong một vụ án có nhiều người tham gia. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều người tham gia là đồng phạm, mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm, nếu có nhiều người phạm tội nhưng không cùng thực hiện một tội phạm thì không gọi là đồng phạm. Chế định đồng phạm quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự được hiểu là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Bộ luật hình sự quy định có hai loại mà theo khoa học luật hình sự gọi là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp (phạm tội có tổ chức). Đồng phạm giản đơn là trường hợp tất cả những người cùng thực hiện một tội phạm đều là người thực hành. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự) là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu và là một hình thức đồng phạm, có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia. Trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành vi và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu.
Như đã phân tích ở trên, việc Đ dùng viên gạch đập vào đầu anh H là hoàn toàn do ý thức chủ quan và bột phát của Đ. Hơn nữa sự việc xảy ra quá nhanh, chỉ trong vòng vài giây đồng hồ nên A cũng không có thời gian để ngăn cản và cũng không mong muốn Đ thực hiện hành vi này. Do đó, Nguyễn Văn A không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của Đ. Đối với hành của Nguyễn Văn Đ phải là phạm tội giết người có tính chất côn đồ, bởi lẽ: mặc dù người bị hại cũng có lỗi nhưng lý do đó chưa đến mức là nguyên nhân dẫn đến việc Đ tước đi tính mạng của anh H. Hành vi này của Đ thể hiện sự hung hãn cao độ, coi thường tính mạng của người khác. Vì vậy, Nguyễn Văn Đ phải bị truy tố về tội giết người có tính chất côn đồ theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS.
Mặc dù vụ án này đã được đưa ra xét xử và Hội đồng xét xử đã tuyên Nguyễn Văn A, Nguyễn Văn Đ đồng phạm tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS nhưng vẫn còn những quan điểm khác nhau, chưa được thống nhất về cách giải quyết vụ án, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc và các đồng nghiệp./.
Trợ giúp viên pháp lý Trần Thị Thúy
Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố