Một số quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình và hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân bạo lực gia đình (phần 12)

16/07/2020
Xem cỡ chữ Đọc bài viết In trang Google

(Tiếp theo phần 11)

2. Các kỹ năng của người thực hiện TGPL cho nạn nhân BLGĐ trong các vụ án dân sự
2.1. Kỹ năng cơ bản
2.1.1. Kỹ năng của người thực hiện TGPL trong giai đoạn khởi kiện
Trong giai đoạn này có thể nói Người thực hiện TGPL cần thực hiện một số công việc sau:
+ Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện;
+ Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện;
+ Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ;
+ Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án.
a)  Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện.
Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là một kỹ năng cơ bản của Người thực hiện TGPL khi tham gia tố tụng trong vụ án dân sự. Bởi lẽ chỉ khi xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp mới có thể áp dụng đúng pháp luật nội dung để lựa chọn giải quyết. Trong thực tế, khi thụ lý vụ án dân sự, có thể Tòa án xác định chưa đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thì Người thực hiện TGPL cần có ý kiến phân tích, kiến nghị với Tòa án để xác định, vì điều này ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng mà Người thực hiện TGPL có trách nhiệm bảo vệ.
Người thực hiện TGPL phải giúp đương sự thực sự hiểu rõ nếu họ khởi kiện thì khả năng họ được lợi sẽ là bao nhiêu phần trăm cũng như nếu họ không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được bảo vệ như thế nào. Người thực hiện TGPL là người không những chỉ nắm bắt pháp luật mà còn hiểu được trạng thái tâm lý khách hàng của mình. Không nên chỉ khởi kiện vì một mục đích là thỏa mãn tính kiêu ngạo và tính hiếu thắng của khách hàng. Ở đây có thể xảy ra những tình huống khác nhau:
+ Có thể họ muốn khởi kiện nhưng Người thực hiện TGPL thấy không cần thiết, có thể giải quyết tranh chấp bằng con đường khác;
+ Có thể Người thực hiện TGPL cho rằng cần phải khởi kiện nhưng họ chưa thực sự thấy cần thiết;
+ Có thể họ muốn khởi kiện nhưng “mặc cả” với Người thực hiện TGPL là phải thắng được đối phương, trong khi Người thực hiện TGPL không bảo đảm là sẽ thắng;
Kể cả trong trường hợp trên Người thực hiện TGPL đều phải phân tích từ các khía cạnh pháp lý để đương sự tự nhận thức được việc khởi kiện hay không khởi kiện là cần thiết. Cần lưu ý đương sự rằng khởi kiện là một quyền của họ nhưng họ có thể không thực hiện quyền đó mà vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngược lại, trong một số trường hợp cần lý giải để đương sự thấy rằng khởi kiện là một quyền của họ và nếu họ không thực hiện quyền đó thì không còn phương cách nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như nếu họ không thực hiện ngay quyền đó thì quyền đó cũng có thể bị mất đi cùng với thời gian (Ví dụ: hết thời hiệu khởi kiện).
Sau khi đã hướng dẫn đương sự để đương sự quyết định khởi kiện hay không khởi kiện thì Người thực hiện TGPL cần tiếp tục thực hiện những công việc tiếp theo. Trong trường hợp đương sự quyết định không khởi kiện ra trước Tòa án mà lựa chọn một phương thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác thì Người thực hiện TGPL cũng phải hướng dẫn đương sự thực hiện theo hướng đó. Ví dụ: Khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp đương sự quyết định khởi kiện ra trước Tòa án có thẩm quyền thì Người thực hiện TGPL cần tiếp tục hướng dẫn hoặc giải thích cho các đương sự một số vấn đề sau:
+ Thời hiệu khởi kiện;
+ Thẩm quyền giải quyết vụ án: Khởi kiện ra trước Tòa án nào;
+ Đã có đầy đủ các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay chưa, cần bổ sung thêm những chứng cứ nào nữa;
+ Thời gian tối đa do luật định để xem xét và giải quyết vụ án này là bao nhiêu;
+ Án phí như thế nào;
+ Dự liệu trước những khó khăn và thuận lợi nếu thực hiện việc khởi kiện;
+ Họ cần phải chuẩn bị những điều kiện gì để tham gia tố tụng được tốt.
b) Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, đơn phản tố
Khoản 1 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 khẳng định, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Do đó, Đơn khởi kiện là một văn bản có giá trị tố tụng rất lớn. Đơn khởi kiện thể hiện yêu cầu chính đáng của đương sự trong vụ án mà họ yêu cầu Tòa án giải quyết, trong đó nguyên đơn trình bày quá trình diễn biến của vụ án cũng như những lý lẽ, tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn dùng để làm căn cứ. Thông thường đương sự khi viết cho mình một đơn khởi kiện, họ thường bỏ qua các yếu tố về hình thức mà chủ yếu chỉ muốn yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết yêu cầu của mình. Người thực hiện cần hướng dẫn họ viết đơn khởi kiện.
Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
- Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;
- Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ để Tòa án liên hệ thì ghi rõ địa chỉ đó;
- Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
- Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện;
- Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
- Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Sau khi đương sự đã viết xong đơn khởi kiện hoặc Người thực hiện TGPL đã viết xong đơn khởi kiện cho đương sự, Người thực hiện TGPL và đương sự cần ngồi với nhau để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền.
Lưu ý khi viết đơn khởi kiện vụ án dân sự
- Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó ký tên hoặc điểm chỉ.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
- Người không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn khởi kiện, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có đủ năng lực tố tụng dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn khởi kiện.
- Cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức.
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung chính sau đây:
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Tóm tắt nội dung tranh chấp hoặc hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
- Lý do cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng và các yêu cầu cụ thể. Tùy theo yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà người yêu cầu phải cung cấp cho Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Các biện pháp có thể áp dụng gồm: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; Buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động; Tạm đình chỉ việc thi hành quyết định sa thải người lao động; Kê biên tài sản đang tranh chấp; Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp; Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp; Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hoá khác; Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước; Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ; Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ; Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
Đơn yêu cầu phản tố: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập theo Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: (a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; (b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập; (c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Cần chú ý, yêu cầu phản tố phải được đưa ra trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Nội dung đơn yêu cầu phản tố gồm:
- Họ tên tuổi, nơi cư trú của bị đơn;
- Nội dung yêu cầu của nguyên đơn hoặc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
- Nội dung yêu cầu phản tố của bị đơn, v.v..
Kèm theo đơn là các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu phản tố.
c) Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ.
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được tốt, đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết. Những chứng cứ đó đương sự phải tự mình thu thập. Các chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản, ví dụ: các bản hợp đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh …
Có một số giấy tờ, tài liệu hoặc chứng cứ đương sự phải tự mình thu thập thông qua các cơ quan chính quyền ở địa phương, ví dụ: giấy xin xác nhận hộ khẩu thường trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một sự kiện pháp lý nào đó. Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau. Người thực hiện TGPL cần hướng dẫn các đương sự nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của mình. Thông thường chứng cứ có thể được sắp xếp theo thứ tự ngày tháng, nội dung hoặc theo hình thức của chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất, Người thực hiện TGPL cần hướng dẫn các đương sự photo công chứng lại các bản gốc. Tất cả các chứng cứ mà đương sự đã thu thập được nhất thiết phải được nhân ra làm hai bản trở lên. Một bản để nộp cho Tòa án, bản còn lại do Người thực hiện TGPL hoặc đương sự giữ. Việc cung cấp các chứng cứ đã thu thập được cho Tòa án vào thời điểm nào do Người thực hiện TGPL quyết định.
d) Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án.
Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Người thực hiện TGPL cần hướng dẫn các đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến lược. Có những chứng cứ cần thiết phải được cung cấp ngay để thông qua Tòa án nội dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho phía bên kia. Tuy vậy, có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho Tòa án và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình. Vì vậy cần cân nhắc kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Người thực hiện TGPL sẽ đóng một vai trò rất quan trọng trong trường hợp này.
- Cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Đây là giai đoạn rất quan trọng, trong đó Tòa án tiến hành các bước cần thiết để thu thập chứng cứ và bước đầu đánh giá chứng cứ. Bên cạnh các chứng cứ do phía mình cung cấp còn có các chứng cứ do đối phương cung cấp. Để làm rõ các yêu cầu của mình và phản bác các yêu cầu của đối phương Người thực hiện TGPL cần hướng dẫn để các đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ với mục đích trên. Những chứng cứ chưa thực sự cần thiết phải cho đối phường biết nên khuyên đương sự chưa cung cấp cho Tòa án vội.
Mặt khác Người thực hiện TGPL cần chuẩn bị cho đương sự các bài giải trình. Các bài giải trình này cần trình bày ngắn gọn và nên đi vào trọng tâm của vấn đề. Mỗi một bài giải trình cần đặt ra cho mình một mục tiêu cụ thể, có nghĩa là: mỗi một bài giải trình cần giải quyết dứt điểm một vấn đề. Cùng với việc giải trình cần thu thập và cung cấp cho Tòa án những văn bản tài liệu có liên quan. Các văn bản, tài liệu này giúp Tòa án nhìn nhận vấn đề một cách chính xác và có hiệu quả. Nếu biết được các lập luận của đối phương thì cũng cần thiết phải chuẩn bị các bài giải trình để phản bác lại các lập luận đó. Các phản bác nên ngắn gọn, sắc bén, có tính thuyết phục và phải luôn được phân tích, nhìn nhận từ góc độ pháp lý. Khi cung cấp chứng cứ cho Tòa án nên thể hiện rõ quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho yêu cầu nào của mình và tại sao? Cũng cần đề xuất luôn phương án để Tòa án xem xét.
- Cung cấp chứng cứ tại phiên tòa.
Tại phiên tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Tuy vậy, bởi vì các phần việc của Tòa án nói chung đã được chuẩn bị kỹ trước khi Tòa án mở phiên tòa do đó việc cung cấp thêm chứng cứ mới của đương sự không nên làm xáo trộn các công việc chuẩn bị của Tòa án trước đó. Các chứng cứ cung cấp tại phiên tòa có thể là những chứng cứ mà đương sự đã thu thập được trước đó nhưng chưa cung cấp cho Tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới thu thập được. Việc cung cấp các chứng cứ tại phiên tòa phải thực sự gây được sự chú ý của Tòa án nếu không nói chứng cứ do mình cung cấp có thể giúp Tòa án nhìn nhận lại vụ tranh chấp một cách có lợi cho mình hơn.
đ) Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Giúp người được TGPL chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Mục đích của việc lập hồ sơ khởi kiện là nhằm tập hợp một cách có hệ thống các tài liệu, chứng cứ và những vấn đề liên quan đến vụ án mà nguyên đơn đang yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Hồ sơ khởi kiện thông thường bao gồm:
- Đơn khởi kiện;
- Các tài liệu chứng minh hoặc giải trình trực tiếp cho yêu cầu của nguyên đơn;
- Các tài liệu về tư cách pháp nhân của nguyên đơn;
- Các tài liệu, chứng cứ kèm theo;
- Các văn bản pháp luật liên quan.
2.1.2. Kỹ năng của người thực hiện TGPL trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Người thực hiện TGPL phải làm việc rất bận rộn. Một mặt, vừa phải chuẩn bị cho khách hàng của mình, một mặt Người thực hiện TGPL phải tự chuẩn bị cho mình. Những phần việc Người thực hiện TGPL cần chuẩn bị cho mình có thể được thể hiện dưới dạng sau:
- Thu thập, nghiên cứu, đánh giá và Hệ thống hóa chứng cứ
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án;
- Chuẩn bị bản luận cứ;
- Trao đổi, làm việc với Tòa án khi cần thiết.
a) Thu thập, nghiên cứu, đánh giá và Hệ thống hóa chứng cứ
Thu thập chứng cứ là hoạt động của Người thực hiện TGPL nhằm tìm kiếm, phát hiện và thu giữ các tài liệu có giá trị chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Chứng cứ có nhiều nguồn, nhiều loại, nên trước khi thu thập, Người thực hiện TGPL cần căn cứ vào yêu cầu cần chứng minh của đương sự mà xác định các nguồn chứng cứ, loại chứng cứ cần thu thập. Trước hết, cần kiểm tra xem đương sự mà mình bảo vệ có những tài liệu, chứng cứ gì, còn thiếu những gì; Những tài liệu, chứng cứ còn thiếu có thể nằm ở đâu; Những ai có khả năng lưu giữ; Phương pháp thu thập cần áp dụng là gì; Thủ tục thu thập ra sao để bảo đảm tính hợp pháp của chứng cứ. Trong trường hợp đã xác định nguồn chứng cứ mà việc thu thập gặp khó khăn thì cần có văn bản trình bày và đề nghị Tòa án hỗ trợ thu thập chứng cứ. Kèm theo văn bản yêu cầu là những tài liệu chứng minh những khó khăn khiến cho việc tự thu thập chứng cứ không thể thực hiện được.
Việc kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ là kỹ năng của Người thực hiện TGPL trong việc dựa vào ba thuộc tính khách quan, liên quan và hợp pháp để xác định giá trị chứng minh của các tài liệu chứng cứ đã thu thập được. Trong các tài liệu có giá trị chứng minh đó, Người thực hiện TGPL cần phân biệt, xếp loại các chứng cứ theo loại từ chứng cứ trực tiếp đến chứng cứ gián tiếp, chứng cứ gốc đến chứng cứ sao chép, thuật lại. Các chứng cứ đã được kiểm tra sẽ được hệ thống hóa theo trình tự lôgic để sử dụng trong hoạt động chứng minh cho yêu cầu của đương sự. Kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ là hoạt động thao tác tư duy nên Người thực hiện TGPL cần phải có kỹ năng, kinh nghiệm kiểm tra mới có thể đạt được hiệu quả.
Tham gia phiên họp, cung cấp, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, hòa giải: Tòa án có trách nhiệm thực hiện kiểm tra việc giao nộp chứng cứ của các đương sự, công bố các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong một phiên họp. Trên cơ sở đó, Tòa án tiến hành thủ tục hỏi các đương sự về các vấn đề: Yêu cầu, phạm vi khởi kiện, việc sửa đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; Những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; Tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác; Bổ sung tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa hoặc những vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết.
Trong phiên họp này, sự có mặt và vai trò của Người thực hiện TGPL rất quan trọng. Người thực hiện TGPL có mặt bên cạnh đương sự sẽ tạo điều kiện để Người thực hiện TGPL có thể đưa ra ý kiến tư vấn kịp thời cho các tình huống phát sinh trong diễn biến của phiên họp để khách hàng có các quyết định phù hợp, đúng đắn bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Đặc biệt, trong phiên họp có thủ tục hòa giải, Người thực hiện TGPL của nguyên đơn giúp đương sự trình bày nội dung sự việc tranh chấp, bổ sung yêu cầu khởi kiện; những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất những quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án, v.v.. Người thực hiện TGPL của bị đơn trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), những căn cứ để phản đối yêu cầu của nguyên đơn, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu phản tố của mình và đề xuất quan điểm về những vấn đề cần hòa giải, hướng giải quyết vụ án (nếu có).
Nghiên cứu, đánh giá chứng cứ: Khác với Tòa án, Người thực hiện TGPL nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là để bảo vệ cho thân chủ của mình. Như vậy không loại trừ những trường hợp trong quá trình nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Người thực hiện TGPL phát hiện ra những chứng cứ bất lợi cho khách hàng của mình. Chứng cứ bản thân nó tồn tại khách quan do đó kể cả Người thực hiện TGPL cũng không thể loại bỏ sự hiện diện và giá trị chứng minh của chứng cứ được. Người thực hiện TGPL có thể không khai thác các chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ có lợi, Người thực hiện TGPL nên tận dụng triệt để. Quá trình đánh giá chứng cứ còn tìm ra các bất hợp lý trong các chứng cứ do các đương sự khác cung cấp, Người thực hiện TGPL cần phải tận dụng những điều đó để vạch ra cho Tòa án thấy được những bất cập liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích của đối thủ của mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tìm ra được những chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình vậy.
Chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể là: một bản hợp đồng, một bản di chúc, một tờ giấy khai sinh, một kết luận giám định. Nhiều khi bản thân các chứng cứ này đứng riêng lẻ thì không tạo nên giá trị chứng cứ, nhưng nếu phân tích, so sánh chúng với nhau thì thấy rõ sự khác biệt và chính sự khác biệt đó lại tạo nên giá trị chứng minh.
Hệ thống hóa chứng cứ:
- Xác định vấn đề cần chứng minh trong vụ án?
- Hệ thống hóa chứng cứ của nguyên đơn (nếu là Người thực hiện TGPL bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn), bao gồm:
+ Sắp xếp tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn theo thứ tự: Đơn yêu cầu, các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn;
+ Đánh giá, xác định giá trị chứng minh của các tài liệu, chứng cứ đó trong mối liên hệ giữa chúng với đối tượng cần chứng minh;
+ So sánh, phân tích, tổng hợp để xác định tính thống nhất hay mâu thuẫn của các tài liệu chứng cứ;
+ Rút ra kết luận về tính có căn cứ hay không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Hệ thống hóa chứng cứ của phía đối phương (bị đơn) theo phương thức nêu trên để phân tích, so sánh, tổng hợp các ý kiến hoặc yêu cầu phản tố (nếu có) làm căn cứ đưa ra quyết định chấp nhận hoặc bác bỏ (một phần hay toàn bộ) yêu cầu.
- Hệ thống hóa chứng cứ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập (nếu có) theo phương thức trên.
b) Nghiên cứu hồ sơ vụ án;
Hồ sơ vụ án là toàn bộ tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự giao nộp cho Tòa án, các bản ghi lời khai, các bản đối chất giữa các đương sự được Tòa án lập trong quá trình giải quyết vụ án; tài liệu của phiên họp cung cấp, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả hòa giải. Nghiên cứu hồ sơ vụ án là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Vụ án dù đơn giản đến đâu thì Người thực hiện TGPL cũng phải dành thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, có hệ thống, khách quan giúp Người thực hiện TGPL nắm bắt được những mặt mạnh, mặt yếu của khách hàng của mình, trên cơ sở đó hình thành các luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án có thể đi theo những hướng khác nhau tùy thuộc vào việc Người thực hiện TGPL tham gia tố tụng từ giai đoạn nào. Nguyên tắc là nghiên cứu một cách toàn diện nhưng không nhất thiết phải nghiên cứu lại những vấn đề mà mình đã biết trước đó.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, cần chú ý các bước sau đây:
- Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn, gồm:
+ Đơn khởi kiện của nguyên đơn để xác định yêu cầu khởi kiện;
+ Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn xuất trình để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện;
+ Các lời khai về sự việc tranh chấp.
- Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ của bị đơn gồm:
+ Văn bản ý kiến của bị đơn về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
+ Đơn yêu cầu phản tố (nếu có);
+ Các tài liệu, chứng cứ của bị đơn chứng minh cho yêu cầu của mình.
- Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, gồm:
+ Đơn yêu cầu độc lập (nếu có);
+ Các tài liệu, chứng cứ do người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giao nộp;
+ Các lời khai về sự việc có liên quan đến yêu cầu độc lập.
c) Chuẩn bị bản luận cứ;
Chuẩn bị kế hoạch xét hỏi: Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Người thực hiện TGPL phải xây dựng kế hoạch xét hỏi. Trong kế hoạch xét hỏi cần xác định những vấn đề cần hỏi, những người cần hỏi gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người tham gia tố tụng khác như giám định viên, hội đồng định giá tài sản, người làm chứng, v.v.. Nội dung xét hỏi dưới dạng những câu hỏi đặt ra cho phía đương sự đối phương, kèm theo dự kiến các câu trả lời và các câu hỏi tiếp theo để làm rõ tính mâu thuẫn của các tài liệu, chứng cứ Người thực hiện TGPL đã phát hiện khi nghiên cứu hồ sơ. Trong kế hoạch xét hỏi, cần sắp xếp các vấn đề cần hỏi và những người sẽ hỏi theo một trật tự lôgic, tiếp nối hợp lý để đào sâu, làm nổi bật những vấn đề cần chứng minh, tránh những câu hỏi bất lợi cho đương sự mà mình bảo vệ. Các câu hỏi nên được diễn đạt ngắn, gọn, rõ ràng, tránh sự giải thích dài dòng, không tập trung. Người thực hiện TGPL cần tham khảo các loại câu hỏi thường được áp dụng như hỏi trực tiếp vấn đề cần quan tâm, hỏi gián tiếp theo kiểu xoáy trôn ốc để cuối cùng làm rõ vấn đề cần hỏi, v.v.. Kế hoạch xét hỏi cần được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với diễn biến quá trình xét hỏi tại tòa.
Luận cứ bảo vệ: Sau khi có kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án, Người thực hiện TGPL cần xây dựng bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Cần phải nhận thức rằng, luận cứ bảo vệ có một ý nghĩa vô cùng to lớn. Một mặt nó phản ánh quan điểm của Người thực hiện TGPL, phản ánh tâm tư nguyện vọng của khách hàng, thể hiện mong muốn của cả Người thực hiện TGPL và thân chủ của mình thông qua các yêu cầu mà Người thực hiện TGPL đề xuất. Mặt khác nó cũng là cơ hội để Người thực hiện TGPL phân tích, nhận định và giải thích pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình. Để có được một bản  luận cứ sắc sảo, có tính thuyết phục Bản luận cứ gồm có các phần sau:
- Phần mở đầu: Giới thiệu Người thực hiện TGPL bảo vệ quyền lợi cho đương sự là nguyên đơn hoặc bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có (hay không có) yêu cầu độc lập.
Bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu: Kính thưa hội đồng xét xử. Nhiều Người thực hiện TGPL mở đầu Bài luận cứ của mình bằng cách thưa gửi rất khác nhau. Về nguyên tắc, Người thực hiện TGPL chỉ cần Kính thưa Hội đồng xét xử là đủ, cũng có thể là Thưa Tòa hoặc Thưa quý Tòa! Nếu Người thực hiện TGPL quá lạm dụng việc thưa gửi có thể không những không tác dụng tốt mà còn ngược lại. Mặc dù cho đến thời điểm này chúng ta chưa có một quy định nào về việc này.Sau đó Người thực hiện TGPL có thể tự giới thiệu về mình và bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Người thực hiện TGPL trong vụ án.
- Phần nội dung: Nêu tóm tắt nội dung vụ án, yêu cầu của thân chủ. Nêu các căn cứ bảo vệ quyền lợi với các luận cứ, luận chứng và các tài liệu, chứng cứ trong bản hệ thống hóa đã chuẩn bị trước, được sắp xếp theo một trật tự lôgic để chứng minh cho yêu cầu.
Phần nội dung là phần chính của bản luận cứ. Một số nội dung như tóm tắt diễn biến của vụ án, phân tích tính hợp pháp, đúng đắn hoặc không hợp lệ của việc Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, phân tích thẩm quyền của Tòa án, thời hiệu khởi kiện, những thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời điểm Tòa án xét xử vụ án, tư cách của đương sự trong vụ án, khẳng định việc yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần thiết được viết trước. Đối với những nội dung khác như: nhận đinh về các tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi của thân chủ, trình bày các chứng cứ và đánh giá các chứng cứ đó, các kết luận được rút ra sau khi nhận định và đánh giá chứng cứ…..trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Người thực hiện TGPL cũng chưa cần phải viết một cách quá chi tiết mà chỉ cần viết nháp theo một đề cương đã được vạch sẵn để tiện cho việc bổ sung, sửa chữa. Đối với những nội dung này nhất thiết phải được bổ sung, sửa đổi lại cho phù hợp sau khi Người thực hiện TGPL đã trực tiếp tham gia vào quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa. Một số nội dung đã được chuẩn bị sẵn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng có thể bị thay đổi cho phù hợp với những tình tiết vừa mới được sáng tỏ tại phiên tòa.
Lưu ý là trong phần này, những vấn đề như chứng minh được các yêu cầu của khách hàng của mình là rất quan trọng. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải lần lượt nêu ra các yêu cầu, hoặc phản yêu cầu đó và dùng các chứng cứ để chứng minh, làm rõ. Khi nhận định, phân tích hoặc kết luận nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của pháp luật. Khi sử dụng các quy định pháp luật để làm căn cứ phải kiểm tra trước hiệu lực của các văn bản đó.
- Phần kết luận: Nêu căn cứ các điều luật cần áp dụng, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của đương sự mà Người thực hiện TGPL bảo vệ, không chấp nhận yêu cầu của đương sự đối phương. Bày tỏ sự tin tưởng vào phán quyết công minh của Hội đồng xét xử về quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Thông thường phần kết luận bao gồm hai nội dung chính: Khẳng định lại các quan điểm (các kết luận) của mình thông qua quá trình phân tích, chứng minh trong phần nội dung và đề xuất với Tòa án phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần kết luận phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý, tránh hiểu nhầm và phải có căn cứ pháp luật. Không đề xuất chung chung như “đề nghị tòa án xử buộc bị đơn phải trả lại toàn bộ nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị tòa án xét xử theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi quyền lợi chính đáng cho khách hàng của tôi…..”
Những yêu cầu về án phí cũng cần thiết phải được đề cập đến trong phần đề xuất. Các thời hạn, thời hiệu hoặc các liên đới về quyền và nghĩa vụ cũng cần được làm rõ. Các quy đổi ngoại tệ hoặc tính tương đương để quy đổi từ tiền này sang loại tiền khác hoặc từ tài sản sang tiền hoặc ngược lại cũng cần phải được trình bày một cách rõ ràng, đồng thời các khoản đã được một bên thanh toán trước đó cũng cần được giải quyết.
d) Trao đổi với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Trao đổi được đề cập ở đây thực chất là các giải trình của khách hàng của mình gửi cho Tòa án trong trường hợp cần trả lời một yêu cầu của Tòa án hoặc cần giải trình một vấn đề nào đó liên quan đến một vấn đề mà đương sự khác nêu ra trái với quan điểm của mình. Các giải trình này còn có thể được thể hiện dưới dạng các sửa đổi, bổ sung các tài liệu mà mình đã cung cấp cho Tòa án trước đó nhưng bị hiểu nhầm, hiểu không đúng hoặc bị xuyên tác. Vì vậy, dù giải trình do khách hàng ký tên thì Người thực hiện TGPL cũng phải giúp khách hàng soạn thảo hoặc ít ra phải giúp khách xem lại lần cuối cùng trước khi gửi Tòa án. Cũng cần lưu ý là các văn thư này trở thành nguồn chứng cứ rất quan trọng mà Tòa án, Viện kiểm sát và các đương sự khác có thể sử dụng trong vụ án. Vì vậy, khi soạn các văn bản này cần hết sức thận trọng cả về hình thức và nội dung, nên ngắn gọn, dễ hiểu, trong sáng. Về nội dung phải chứa đựng và khẳng định lại các quan điểm mà Người thực hiện TGPL hoặc khách hàng đã trình bày trước đó. Tuyệt đối không đưa ra các quan điểm trái ngược với các quan điểm đã đưa ra trước đó trong cùng một vụ án.
e) Làm việc với người được TGPL
Trước khi đưa ra giải pháp nào thì người thực hiện TGPL cũng nên thông báo cho người được TGPL của mình được biết. Trong trường hợp có bất đồng quan điểm giữa người được TGPL và Người thực hiện TGPL, nếu Người thực hiện TGPL có đầy đủ cơ sở cho là mình đúng thì nên thuyết phục người được TGPL nghe theo ý kiến của mình trên cơ sở phân tích cho họ thấy từ góc độ luật pháp. Nên trình bày rõ ràng, ngắn gọn những quan điểm mà Người thực hiện TGPL có ý định trình bày trước tòa. Nếu đã chuẩn bị xong bản luận cứ thì nên gửi cho người được TGPL một bản. Cũng cần nói rõ là bản luận cứ luôn luôn ở trong tình trạng có thể bị thay đổi, cập nhật cho phù hợp nhưng mục đích cuối cùng là bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Cũng nên cho họ biết qua diễn biến của phiên tòa có thể xảy ra, dự báo những điều cần thiết có lợi hoặc bất lợi cho người được TGPL.Trong bất kỳ trường hợp nào thì dự báo cũng nên trung thực, khách quan nhưng không bi quan hoặc chủ quan thái quá. Cần hướng dẫn cho họ một số công việc cần thiết khi họ phải trả lời các câu hỏi trước tòa. Nếu cần nên tập dượt trước cho thuần thục, nên cho họ biết rằng họ có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào hoặc nhờ Người thực hiện TGPL trả lời hộ trong trường hợp cần thiết.
Làm việc với người được TGPL cũng quan trọng như làm việc với Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Để các buổi làm việc với khách hàng có hiệu quả, Người thực hiện TGPL nên vạch ra cho mình một kế hoạch, theo đó, Người thực hiện TGPL cần gặp người được TGPL vào những hôm nào, bàn về những việc gì và mục đích hay kết quả cần đạt được từ những buổi làm giệc đó là gì.
(Còn tiếp,…)
Trần Nguyên Tú
Phó trưởng phòng – Phòng TC&QLCL
 
 
 

Xem thêm »